Ban đầu, đại ma đầu còn tính đẩy chuông mộng sang cho người khác, giờ đây treo kè kè ở mình rồi thì lại đổi ý. Mặc dù chàng chẳng nhớ được chút gì những chuyện trong quá khứ nữa, song vẫn xem chiếc chuông mộng này như bảo bối, không cho một ai khác chạm vào.



Đặc biệt không cho Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên chạm vào.

Mỗi khi y chạm vào chiếc chuông, nét mặt của đại ma đầu lại biến hoá một cách diệu kỳ. Rõ ràng lúc tính đẩy chuông mộng cho người khác, người này đã chọn Tiêu Phục Huyên trước tiên còn gì.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ vừa nhắm mắt giả chết vừa theo dõi tình hình qua khoé mắt không lệch một li, trong lòng ca ngợi không hổ danh là thành chủ chúng ta, quả thật tính tình bất ổn tâm tư khó đoán, trở mặt còn nhanh hơn lật sách.

Ô Hành Tuyết không muốn chỉ vì chiếc chuông bé tí mà cứ không ngừng kéo qua kéo lại với Tiêu Phục Huyên như vậy, trên mặt chàng không tỏ vẻ gì thế nhưng nhìn vào cứ như bọn họ có mờ ám gì đó trong lòng.

Chàng bèn nhắm nghiền mắt lại, tựa mình trên vách xe ngựa và giả vờ ngủ mất. Lòng chàng không khỏi tự mỉa: Đường đường là một đại ma đầu mà học ai không học, lại đi học cái thói của hai thằng ngu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.

Phương thức của người ngu thường hữu dụng hơn, sau khi làm bộ một lát thì Ô Hành Tuyết thấy buồn ngủ thật.

***

Theo lời Y Ngô Sinh cho hay, ở thời điểm hiện tại thế đạo rất loạn lạc, dẫn đến việc các tiên môn tiến hành thiết lập cấm chế và kết giới tiên môn quanh ranh giới địa bàn hoạt động của gia tộc họ, nó cũng tương tự với vách ngăn trên đường đến thung lũng Đại Bi với kích cỡ lớn nhỏ vô cùng đa dạng.

Những thứ này được đặt san sát ở ngoại ô, núi đồi, bến tàu và những nơi giao thương khác thành tầng thành lớp nên không thể xem thường.

Thuở trước, những người có tu vi cao trong tiên môn có thể ngự kiếm trên trời, có thể xới ngàn dặm đất, đi từ cực bắc đến cực nam cũng chẳng tốn mấy công sức.

Bây giờ không còn như thế nữa.

Lý do không phải vì tu vi họ thụt lùi nên không thể ngự kiếm, mà bởi vì khi đi như vậy sẽ xuyên qua không biết là bao nhiêu kết giới và cấm chế, gây phiền hà cho không biết bao nhiêu tiên môn, đi một đường thôi có mà trật tay với số phong thư nhận được từ các dòng tộc.

Thành thử để tránh những phiền phức như vậy, trừ phi lâm vào tình huống khẩn cấp đặc thù, trong mấy năm gần đây đa phần các gia tộc đều chọn di chuyển bằng xe ngựa được chế tạo đặc biệt.

Ngồi trên xe ngựa chỉ cần thắng lại một chốc hoặc rẽ thình lình một lần là đã vượt qua một cấm chế. Làm vậy có thể đi qua kha khá thành trì và thẳng một đường đến nơi.

Ước chừng đi từ thung lũng Đại Bi đến Lạc Hoa Đài phải mất trọn một ngày để qua bốn toà thành.

Giữa lúc lim dim, Ô Hành Tuyết cảm thấy xe ngựa nảy lên một phát, đoán chừng đây đã là toà thành thứ ba, tức là cách Lạc Hoa Đài không xa nữa.

Họ lên đường khi trời vừa hừng sáng, mà lúc này đã gần đến xế chiều, xem ra bởi vì càng lúc càng đến gần Chiếu Dạ thành nên nhiệt độ không khí cũng tuột giảm nhiều.

Ô Hành Tuyết cảm thấy lạnh thật sự.

Ngón tay chàng luồng trong ống tay áo bào rộng, đầu ngón tay xoa trên ấm sưởi. Nhiệt độ trên ấm sưởi nhìn chung là đủ dùng, ôm một thời gian dài trên tay còn cảm thấy hơi nong nóng, cực kỳ phù hợp dùng trong những đêm mùa đông như vậy.

Thế mà Ô Hành Tuyết vẫn thấy lạnh căm căm.

Ban đầu, chàng cho rằng hơi lạnh lùa vào từ khe hở trên cửa sổ xe ngựa, song hồi sau mới vỡ lẽ không phải từ đó. Cơn ớn lạnh kia như toát ra từ tận xương tuỷ chàng, lạnh như đá băng ướt đẫm chảy dọc cơ thể theo kinh mạch và khớp xương.

Hơi ấm trên tay không đủ để cân bằng cái lạnh rét thấu như vầy.

Chàng bèn thử vận khí kình cho nó xoay chuyển vài vòng…

Càng lạnh hơn.

Thiếu đi trí nhớ phiền hà như vậy đấy. Lúc giết người thì gọn gàng chẳng màng chớp mắt, mà đến những khi thế này thì vô dụng chẳng khác gì hạng ăn hại.

Ô Hành Tuyết tự mỉa mình một câu.

Kế đó hững hờ mở mắt ra nhác nhìn thử, toan kéo một chiếc chăn nỉ dày đến để đắp. Nào ngờ mắt vừa mở đã gặp phải đôi mi hơi rủ xuống của Tiêu Phục Huyên, ánh mắt ấy đang dừng trên người chàng, không rõ là đang nhìn chàng hay chỉ bần thần mà ngẫm nghĩ đi đâu.

“…”

Ô Hành Tuyết ngẩn ra một giây lát rồi lẳng lặng nhắm mắt lại.

Không lấy chăn được rồi, làm vậy gây chú ý quá. Còn lạnh ấy à…

Thì thây kệ nó đi, thân là ma đầu rồi cũng có bị cóng chết được đâu!

Trong cái rét quẩn quanh cơ thể, chàng thiếp mắt chìm vào giấc miên man. Trước khi hoàn toàn đắm sâu vào giấc ngủ, ý thức chàng hãy còn loáng chút tỉnh táo và không quên đặt chiếc chuông mộng vào lòng bàn tay mình để tránh người khác lại chạm vào lần nữa.

Có lẽ vì cầm chuông bạch ngọc trong tay mà chàng đã có một giấc mơ. 

***

Trong mơ, chàng cũng cảm thấy thật lạnh lẽo, cái rét buốt vẫn men theo xương tuỷ mà chảy tràn khắp cơ thể. Khác mỗi chỗ, khi này chàng chỉ khoác một lớp áo mỏng manh và tay không cầm ấm sưởi.

Hai tay trống không, chàng đứng giữa một sân vườn khoáng đãng nào đó và cúi người rửa tay bên khóm trúc xanh.

Rêu phong quanh rìa tảng đá đóng băng chóng vánh, có thể thấy dòng nước kia lạnh lẽo khôn cùng. Mà chàng như vô tri vô giác, chỉ lẳng lặng buông mắt nhìn những ngón tay nhợt nhạt của mình.

“Thưa thành chủ,” một ai đó gọi chàng.

Ô Hành Tuyết giũ tay hai cái, kế đó mới thong dong đứng thẳng người và quay đầu nhìn lại.

Phương Trữ đang đứng bên gốc đại thụ rợp trời, trước chân là một cái đầm hun hút, cạnh đầm tuyết đọng thành đụn, nước bên dưới trông thăm thẳm và đặc sệt. 

Thoạt nhìn dòng nước kia đen kịt, mà bọt nước sủi lên bắn vào nền tuyết nhuộm thành một mảng đỏ thắm.

Có một cánh tay đang vùng vẫy từ dưới đầm, cố gắng nắm lấy không khí vài lần. Phương Trữ thấy thế đạp một đạp, cánh tay kia liền chìm sâu xuống dưới.

Sau đó, không còn động tĩnh gì nữa.

Phương Trữ ngoáy đế giày của mình trên cỏ mấy cái để chùi máu và bẩm báo, “Bẩm thành chủ, đã xử lý xong xuôi hai đứa ngu xuẩn thích nói quàng rồi ạ, có điều không biết tin đồn đã lan xa đến đâu rồi.”

Ô Hành Tuyết cầm một chiếc khăn vải trắng như tuyết từ giá treo bạc bên cạnh khóm trúc, vừa lau tay vừa nói, “Ta không nhớ rõ mặt, hai thú vui nhỏ này từ đâu đến đấy?”

Phương Trữ: “… Thú vui nhỏ.”

Hắn mấp máy khoé miệng.

Thành chủ nhà hắn há miệng ngậm miệng đều gọi người khác như vậy, người ngoài nghe vào không hiểu có khi còn tưởng là biệt danh gì đấy. Song thật ra ý là hai thứ vô tri không biết trời cao đất dày, đồ chừng là muốn dò la tin tức cho chủ tử mình nên mới cả gan chán sống mò đến Tước Bất Lạc.

Xui rủi cho chúng gặp lúc thanh chủ nhà hắn đang có tâm trạng không vui, mệt mỏi cả người nên ném thẳng chúng xuống ao máu, xương cốt gì cũng chẳng thừa một mẩu.

Hẳn nhiên, khi tâm trạng vui vẻ có khi còn thảm thiết hơn. 

Ninh Hoài Sam có chút bóng ma tâm lý với đầm máu, còn Phương Trữ ngược lại, xưa kia hắn sống lại nhờ có đầm máu này nên hoàn toàn không có cảm giác sợ hãi gì với nó.

Nhác thấy trên đầm máu có một cái móc nhỏ màu vàng, hắn chẳng chút chần chờ duỗi tay kéo nó lên, săm soi một chút rồi nói, “Thưa thành chủ, có móc câu phách.”

Động Ma Chiếu Dạ thành là nơi không bàn tình người và cũng không có tính người, bên trong phủ trạch của bọn đại ma đầu đều có nuôi rất nhiều tiểu tà ma giúp mình làm đủ thứ việc.

Khi bị đại ma đầu trấn áp, lũ tà ma trở thành thuộc hạ và tuỳ tùng ngoan ngoãn tuân lời. Còn một khi ma đầu bị thương hoặc suy yếu không kiểm soát nổi nữa thì lũ tà ma kia sẽ như những con sói đói nhăm nhe cơ hội để cắn ngược lại bất kỳ lúc nào.

Để an lòng bản thân và dễ điều khiển, có một số ma đầu cài móc câu phách lên mệnh môn của những tên thuộc hạ kia, làm vậy cũng tương đương với việc đeo xích chó trong thế giới phàm nhân.

Thường ngày, móc câu phách ẩn bên dưới da, chỉ lộ ra lúc rã thịt sau khi chết mà thôi.

Nếu là ở tiên môn, chắc chắn không ai khắc tên mình lên những thứ âm độc tà quái như thế này, có làm cũng giấu diếm không muốn người ta biết mình là ai. Còn ở Động Ma thì ngược lại.

Bọn ma đầu vừa kiêu ngạo vừa ngang ngược nên trên từng móc câu phách đều sẽ có dấu ấn riêng đặc biệt của kẻ đó chứ chẳng ngại ngần bị ai khác nhìn thấy. Nếu có thấy thì càng tốt bởi nó giúp củng cố uy danh hung tàn cho chúng.

Danh tiếng càng hung tàn, thì kẻ khác càng không dám mạo phạm, thuộc hạ cũng phục tùng ngoan ngoãn và trung thành hơn.

Bởi vậy, Phương Trữ thoạt nhìn dấu ấn đã biết ngay là ai, “Bẩm thành chủ, đây chắc là Tang đại nhân ạ.”

Ô Hành Tuyết: “Tang đại nhân à, Tang đại nhân nào vậy?”

Phương Trữ liệt mặt.

Ô Hành Tuyết ngâm “À” nhàn nhã rồi nói, “Ngươi nói Tang Dục à?”

Phương Trữ chịu hết thấu, lầu bầu trong họng, “Chiếu Dạ thành cũng có mỗi vị này họ Tang.”

Ngụ ý là còn nhầm với ai được nữa!

Thế mà thành chủ nhà hắn thần kỳ lắm, có lẽ bản thân quá mạnh rồi nên chẳng để ai khác vào mắt. Chiếu Dạ thành có vài tay ma đầu trứ danh khắp thế gian mà ai nghe tới tên cũng sợ vỡ mật, vậy nhưng thành chủ nhà hắn nghe vào có khi còn lơ ngơ một hồi mới phản ứng.

Đặc biệt là với vị Tang Dục này. 

Vừa khéo hung danh của tên này chỉ xếp sau Ô Hành Tuyết.

Trước đây nhiều bảo rằng Ô Hành Tuyết nói không nhớ rõ đại danh của Tang Dục chẳng qua chỉ là một cách châm biếm, chứ không làm sao có thể không biết “Tang đại nhân” là chỉ ai.

Ban đầu, Phương Trữ cũng nghĩ vậy, song sau khi đi theo thành chủ lâu năm, hắn mới phát giác thành chủ nhà mình không hề cố tình.

Trên thế giới, số người có thể khiến Ô Hành Tuyết “cố tình” chỉ đếm vỏn vẹn trên đầu ngón tay.

“Ninh Hoài Sam đâu rồi?” Ô Hành Tuyết mắc khăn vải lên rồi hỏi.

“Ra ngoài làm việc rồi ạ,” Phương Trữ nói. “Cậu ta bảo muốn nhanh chóng hoàn thành việc lần trước thành chủ giao cho trong vòng hai ngày này. Hôm qua, có nghe cậu ta la ó là trở lạnh rồi, đoán chừng sắp bắt đầu bước vào kiếp kỳ nên chắc hẳn mấy hôm nữa sẽ không ra ngoài được.”

Nghe đến kiếp kỳ, sắc mặt Ô Hành Tuyết nhạt đi.

Phương Trữ chăm chú nhìn Ô Hành Tuyết một lát rồi mới ngập ngừng nói, “Thưa thành chủ, mấy ngày nay kiếp kỳ của ngài…”

Ô Hành Tuyết lia mắt sang nhìn hắn.

Phương Trữ lặng thinh, không dám hó hé gì thêm.

Ô Hành Tuyết nói, “Nếu móc câu phách là của Tang Dục, thế thì ngươi với ta cùng đến chỗ Tang Dục một chuyến đi.”

Phương Trữ vâng lời đưa móc câu phách lại gần chàng và không nhịn mà hỏi, “Sao phải cần đến thành chủ đến tận đấy, nếu có phải là hắn tự vác xác đến cửa bồi tội mới hợp lẽ.”

“Không cần đâu,” Ô Hành Tuyết không nhận móc câu phách kia mà bước qua hành lang dài ra ngoài cửa với hai bàn tay trống. “Ta chịu không nổi mùi trên người hắn, tốt nhất là đừng bén mảng tới đây.”

Hành động dâng móc câu của Phương Trữ cũng là cố tình, thấy chàng không nhận thì hắn cũng cho vào túi đeo bên hông của mình một cách thuần thục, sau đó nói, “Chỗ luyện Thi đạo quả thật có hơi ẩm thấp, song Tang đại nhân đã tu luyện đến cực cảnh nên cũng không bám mùi vị gì.”

Nói thế nhưng hắn vẫn sực nhận ra thành chủ nhà mình có những thời điểm trông không giống ma đầu chút nào, nên hắn cũng không nói thêm gì nữa.

Thời điểm trong mơ dường như cũng vào một mùa đông giá rét, sương mù miên man trải khắp Chiếu Dạ thành, thở ra một hơi là khói trắng tuôn trào.

Ô Hành Tuyết bước khỏi xe ngựa đen kịt và tiến vào một ngôi phủ to lớn.

Tà ma trong Chiếu Dạ thành có nhiều sở thích rất kỳ quặc, muốn trang hoàng dị dạng cỡ nào có dị dạng cỡ đó. Phủ trạch của những kẻ luyện Thi đạo thường được tu sửa chẳng khác nào một khu địa cung dưới lòng đất.

Nhưng toà phủ của Tang Dục lại bình thường đến lạ, thoạt trông không khác gì căn phủ tường đỏ của những gia tộc quyền quý nơi Vương đô Kinh thành. Ngặt nỗi vừa bước vào đã khác hẳn…

Bên trong thính đường của một gia đình bình thường đặt ghế ngồi cho khách, còn nơi này thì trái ngược hoàn toàn, tựa bên tường là một cỗ quan tài đen trũi.

Nắp quan tài đóng đinh phong ấn giáp vòng, bên trên phủ giấy vẽ phù màu vàng, có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng cười chát chúa ngắt quãng từ bên trong.

Nhỡ có bá tánh nào đến đây chắc sẽ bị tiếng cười kia doạ đến mất hồn mất mật.

Tuy thế, Ô Hành Tuyết như không thấy gì, chỉ đơn giản dẫn Phương Trữ đi từ ngoài vào trong nhà.

Đám thuộc hạ của Tang Dục hối hả chạy theo sau gót họ, muốn cản người lại nhưng không dám đứng gần quá, “Thành chủ, bẩm thành chủ, bẩm thành chủ!”

“Nói đi, ta nghe đây,” Ô Hành Tuyết vẫn không ngừng bước chân mà tiếp tục với phong thái không nhanh không chậm, sau đó lại thong thả bước một bước đến cuối hành lang chỉ trong chớp mắt, đoạn nghiêng khẽ đầu. Giảo quyệt đến mức đám tà ma thuộc hạ không cách nào ứng phó kịp.

“Tang đại nhân nhà chúng ta… ngài ấy không tiện tiếp khách lắm,” bọn thuộc hạ thưa.

Trong Chiếu Dạ thành này, Tang Dục vô cùng ngạo mạn, gã nuôi ra một bọn thuộc hạ cũng không kém cạnh gì. Nếu kẻ bước vào là người khác thì chúng đã động thủ từ sớm chứ nào có buồn động miệng làm gì. Khốn nỗi người đến lại là Ô Hành Tuyết nên chúng mới chẳng dám ra tay, chỉ đành khua môi múa mép.

Ô Hành Tuyết chỉ “À” nhẹ một tiếng rồi nói, “Có tiện hay không là việc của hắn chứ liên quan gì đến ta, ta có hỏi ý hắn à.”

Lũ thuộc hạ: “…”

Chàng bước tiếp như vào chốn không người, sau khi quẹo vài lần thì dừng chân trước một căn phòng cao ngất.

Không hỏi cũng biết Tang Dục đang ở trong căn phòng này, bởi cả căn phòng chìm trong hơi ẩm âm u và nồng nặc, nó nồng đến mức tưởng chừng đây là nơi chôn cất hàng vạn người.

Đến độ ngay cả Phương Trữ cũng cảm thấy mùi quá nồng.

Ô Hành Tuyết hơi cau mày, nhấc tay lên che mũi mà chẳng chút giấu giếm.

Lũ thuộc hạ: “…”

Chúng muốn cản cũng không cản nổi, chỉ còn cách hô lên với người bên trong căn phòng, “Bẩm đại nhân, thành chủ tới!”

Trông chúng như muốn tiến lại gần cửa phòng nhưng đồng thời e dè không dám bước tới. Giống hệt một lũ sài lang xương mỏng mắt xanh đói rệu rã, bên trong có thứ đồ ăn mà chúng thòm thèm nhưng lại không đủ sức nên chỉ đành chùn bước.

Không có bất kỳ tiếng đáp lời nào phát ra từ trong phòng, song có thể nghe được tiếng người thâm thấp, có vẻ nỉ non mà nhớp nháp nhưng bị chắn sau một tầng kết giới.

Đồng thời hơi ẩm quanh quẩn trong không khí lại càng đậm đặc hơn.

“Bẩm đại nhân…” bọn thuộc hạ toan gọi lần nữa.

Ô Hành Tuyết giật ngón tay đang buông thõng bên người, chỉ nghe một tiếng Rầm khủng khiếp, đã thấy trong thoắt chốc mà cánh cửa có đặt cấm chế đóng chặt bị một cỗ lực vô hình mạnh mẽ oanh tạc.

Cánh cửa đập mạnh vào vách tường và vẳng lên âm thanh vang dội.

Âm khí ẩm thấp và dày đặc thoát ra khỏi cửa không khác gì màn sương xám xịt phiêu diêu.

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu né đi xong mới quay lại, lần này đã thấy rõ khung cảnh bên trong cánh cửa…

Một cái giường to lớn khuất sau mành treo, cả căn phòng tràn đầy những bóng dáng dây dưa quấn vào nhau và ngập ngụa mùi máu nóng còn chưa kịp khô.

Cấm chế vừa bị phá, không còn gì cản trở âm thanh bị chắn lại bên trong, chúng lùa ra khắp nơi, đập vào tường, va lên ô cửa sổ lúc mờ lúc tỏ.

Xưa nay, tà ma luôn đam mê các loại khoái lạc, chúng là kẻ vô tâm vô phổi và hiển nhiên không có đạo đức và liêm sỉ của người bình thường. 

Tang Dục thoáng quay mặt liếc ra cửa chính, rồi nheo mắt lại và quay đi. Sau một lúc lâu, gã mới thản nhiên trở người ngồi thẳng dậy, gác chân tựa người trên giường giữa những thân thể quấn rịt vào nhau.

Gã cất giọng khàn khàn về phía cửa, “Sao thành chủ lại ghé đây thế này? Không khéo ta đang vào giữa kiếp kỳ nên lạnh lẽo quá đỗi, phải gọi những người này đến để sưởi ấm nên không cách nào nghênh đón bên ngoài được, xin đắc tội.”

Ô Hành Tuyết không tỏ vẻ gì, nhưng Phương Trữ đã dời mắt đi chỗ khác.

Tang Dục thấy thế thì nhoẻn cười. “Sao nào, kiếp kỳ nào chẳng như thế đâu nhở, nếu không làm những việc này thì còn cách nào khác à?”

Được mấy bóng người kia ôm ấp nên cả người gã toàn mồ hôi, tất nhiên không cảm thấy lạnh lẽo. Có điều mồ hôi nhanh chóng khô ran, khiến gã khẽ rùng mình, bèn cứa tay một người trong số đó và ôm người nọ vào uống máu.

Ban đầu người bị cắn cánh tay còn chưa kịp sinh phản ứng, nhưng sau một lát thì bắt đầu run lên cầm cập và ra sức giãy giụa.

Tang Dục bỏ cánh tay kia đi rồi dựa lưng vào một người khác ở phía sau, nhìn vào đại ma đầu đứng ở cửa phòng với khoé miệng hãy còn vương vết máu.

Gã khịt mũi một phát ra vẻ như ngửi ngửi gì đó. “Hừm… phải rồi, ta nghe thuộc hạ bảo rằng mấy hôm trước thành chủ cũng đến kiếp kỳ phải không.”

“Chậc, những kẻ tu đường này như chúng ta không bị quản chế bởi một giới hạn nào, chuyện gì cũng tốt chỉ khổ nỗi gian nan khi gặp kiếp kỳ, cảnh giới càng cao càng khó vượt qua,” Tang Dục cười nói. “Xem như ta cũng có chút an ủi tâm hồn bởi ít ra nỗi khốn khổ của thành chủ ắt phải nặng nề hơn ta nhiều.”

“Nhưng sao ta chưa từng nghe nói thành chủ bắt người trong kiếp kỳ bao giờ thế nhỉ, không biết ngài đã làm sao để vượt qua giai đoạn ấy? Ta tò mò thật đấy, nên đã phái mấy kẻ này lưu ý giúp ta một chút, nhưng xem ra bọn chúng không trở về được rồi nhỉ?”

Giọng điệu này cho thấy gã biết rõ lý do vì sao Ô Hành Tuyết đến đây và cũng chẳng thèm giấu giếm mà trải bài ra cả. Gã giả mù sa mưa thở dài thườn thượt, “Ôi hai đứa nhóc đáng thương làm sao. À nhưng hôm qua hai đứa nhóc đáng thương này có báo ta biết một việc vô cùng thú vị.”

Gã liếc sang Ô Hành Tuyết và tiếp tục, “Nghe chúng bảo mấy hôm kiếp kỳ gần đây có thấy một người ở Tước Bất Lạc, chúng nó thấy mà hoảng sợ đến độ tưởng rằng mình bị rối loạn tâm thần nên nhìn nhầm người rồi. Giờ đây hai kẻ đáng thương kia đã chết thì chẳng bằng ta giúp chúng hỏi ngài một câu…”

“Thành chủ à, vì sao những ngày kiếp kỳ này mà Thiên Túc thượng tiên lại ở Tước Bất Lạc của ngài thế nhỉ?”

❄︎

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ

Cá: kiếp kỳ (劫期) đọc là jié qī, viết tắt là JQ, giống với gian tình (奸情) jiān qíng. Không biết tác giả có cố tình không chứ ngộ là cố tình rồi đó ~ 3 ~

Chú thích:

Có một người họ Tang khác từng được nhắc trong truyện ở chương 21, là một trong những vị bị cách tiên giáng phàm dưới thung lũng Đại Bi.