Đó là năm Thanh Hà thứ một trăm.

Tiêu Phục Huyên vừa được giải trừ lệnh cấm chưa đến nửa tháng.

Nếu có ai vén ống tay áo y lên sẽ thấy trên cánh tay y vẫn còn sót lại dấu vàng nhạt của chú giam cầm, trông nó tương tự với chữ “Miễn” được Thiên đạo ban tặng bên cổ.

Chẳng qua, chữ nơi cổ được vinh danh là “thưởng”, còn ở trên người lại là phạt.

Suốt một trăm năm, cả Tiên Đô lẫn nhân gian thường lưu truyền một lời kể, rằng Thiên Túc thượng tiên mang lệnh cấm trên người nên phải ở yên ngoài cực bắc một trăm năm. Song đến cùng, y đã làm ra chuyện gì? Vì sao lại phải nhận lệnh cấm? Rồi vì sao phải kéo dài đến tận một trăm năm? Rất nhiều câu hỏi bên trong đấy mà trước giờ không có một ai trả lời rõ ràng được.

Ngay cả các vị tiên thuộc Linh đài trên Tiên Đô, thậm chí có đôi khi Tiên thủ Minh Vô tình cờ nghe nhắc đến vẫn chỉ có thể lắc đầu kết luận, “Chỉ biết sơ sơ.”

Điều duy nhất họ biết chính là, vào ngày hôm đó Thiên Túc thượng tiên đã băng xuyên qua Linh đài một mình.

***

Ngày Lạc Hoa Đài chìm trong hoả hoạn, Tiêu Phục Huyên dùng linh thức mình xông thẳng vào Thiên đạo Linh đài.

Linh đài trên Tiên Đô bao gồm mười hai ngọn núi treo cao giữa trời, mỗi ngọn núi do một vị tiên cai quản và trấn thủ, bên người mỗi tiên đều có tiên sứ nhiều không kể xiết.

Ngày hôm đó, khi phần linh thức bọc trong khí lạnh của gió sương cực bắc lộng thẳng vào Linh đài như một thanh kiếm băng giá thấu xương, các vị tiên nhân lẫn tiên sứ đều thất kinh hồn vía.

Từ khởi thuỷ đến nay, không bất kỳ một ai dám bước vào Linh đài bằng tác phong như vậy. Phàm là bất kỳ người nào, phàm là đến nhận thiên chiếu hay đến quỳ lãnh thiên phạt thì đều phải cất từng bước một lên mỗi tầng mây.

Chưa bao giờ có một người… mang kiếm ý hung hãn đầy ngạo nghễ còn đính kèm sát khí.

Những tiên sứ kia phải giơ tay lên che mặt. Nhưng bọn họ vẫn có thể cảm nhận được cơn cuồng phong quét qua khi linh thức kia lướt sang. Cơn gió ấy đượm tuyết vụn không rõ từ đâu và mang hương vị tiêu điều chỉ thuộc riêng về cực bắc.

Ngay khi ngửi được mùi vị đó, tất cả bọn họ đều kinh hồn tán đảm.

Người trên Tiên Đô có thể nhận sai hương vị của tiên nào chứ chắc chắn không nhầm được Tiêu Phục Huyên. Cả người y phủ trong tiên khí hoà quyện sát khí dày đặc nhất, mang hương vị độc nhất vô nhị.

Mà chính vì độc nhất vô nhị để chỉ thoáng lướt qua là người ta nhận ra ngay, nên bọn họ càng sợ hãi không thôi.

Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì khiến Tiêu Phục Huyên phải gấp rút đến bậc này?!

Chúng tiên sững sờ nhưng hoàn toàn không tìm ra manh mối.

Bấy giờ, họ đã hồi phục sau khoảng trống “Linh Vương bị xoá sổ” ngắn ngủi, hoàn toàn quên bẵng sự tồn tại của Linh Vương mà chỉ ngỡ rằng Tiên Đô vừa trải qua một ngày như mọi ngày như trăm năm qua, là một hôm gió yên sóng lặng, vô sự phát sinh.

Thế nên họ không hiểu và cũng không kịp cản người, chỉ vội hô to, “Thiên Túc! Làm thế là vi phạm thiên quy đấy!”

Bất kỳ một ai cũng biết không thể tuỳ tiện xông vào Linh đài, và làm như vậy là trái với thiên quy. Chắc chắn Tiêu Phục Huyên cũng biết, nhưng linh thức y vẫn không mảy may chậm bước.

Bọn họ chỉ loáng thoáng trông thấy ảo ảnh Thiên Túc giữa gió tuyết lạnh căm, gương mặt y đanh lại như băng rét và đáy mắt nhuốm đỏ.

Trong chóng vánh, những lời hô hào và cảnh báo của họ đã tuột lại phía sau. Họ hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao đột nhiên Thiên Túc lại như thế?!”

Thực chất, bản thân Tiêu Phục Huyên cũng không rõ chuyện gì đang xảy ra.

Cơ thể y vẫn đang ngồi đông cứng giữa trời bão tuyết bên ngoài cực bắc, trên tay y đang cầm pho tượng bằng bạch ngọc còn chưa chạm hoàn chỉnh. Y không biết nên giải thích chuyện đang xảy ra thế nào mà chỉ biết có một nháy mắt nào đó, trong lòng y chợt nhói lên nỗi đau xót vô cớ.

Miền cực bắc rộng lớn thênh thang, y ngửi hương gió tuyết mà cảm thấy lạnh lẽo như vạn kiếm xuyên tâm. Y mím đôi môi mỏng thẳng tắp, cụp mắt nhìn xuống bức tượng ngọc. Trước khi y kịp nhận ra thì linh thức y đã tách rời thể xác, đi thẳng lên Tiên Đô.

Y không thể nói rõ là chuyện gì, nhưng y cần phải làm gì đó.

Y cần phải làm gì đó, nếu không…

Nếu không…

Y thậm chí không biết “nếu không” sẽ như thế nào, nhưng linh thức y đã phóng ra ngoài như một thanh gươm nặng nề, cắm thẳng vào đỉnh núi trên Linh đài.

Khoảnh khắc đó, đỉnh núi lơ lửng giữa màn mây rung lắc dữ dội. Vết nứt dưới chân ảo ảnh Tiêu Phục Huyên dần lan rộng khắp nơi, đá vụn bắn tung toé.

Y siết chặt thanh kiếm trong tay, ngẩng đầu lên hỏi, “Ngươi đã làm gì?”

“Rốt cuộc, ngươi… đã làm gì?”

Thiên đạo đã xoá sổ thì chẳng chừa đường thoát và cũng không lưu lại vết tích. Dẫu cho có là ai trên thế gian cũng thế thôi…

Tất cả bọn họ đều tỉnh lại từ khoảng trống ngắn ngủi, rồi tiếp tục làm công việc như thường lệ. Từ bấy về sau sẽ đưa ngày hôm đó chìm vào quên lãng.

Khoảng trống để lại trong quá khứ được lấp đầy bởi một cơ số lý do cực kỳ hiển nhiên, khiến họ không chút bất ngờ khi nhớ lại và không để họ phát sinh nghi ngờ. Họ sẽ cảm thấy sự tình vốn dĩ nên như vậy, thế gian trước giờ vốn nên là thế chứ chưa hề có một biến cố nào xảy ra.

Tất cả mọi người đều nên phản ứng như thế, không một ai ngoại lệ.

Vậy mà… lại có một Tiêu Phục Huyên.

***

Các tiên trên Linh đài không bao giờ biết rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra trên đỉnh núi cao nhất trước án Linh đài vào ngày hôm ấy.

Thật ra ngày đó, họ đã tận mắt chứng kiến mười hai toà núi cao treo giữa tầng mây rung chuyển kinh hoàng, cơn lốc sát khí bên dưới Nam Song Hạ dậy sóng cuồn cuộn. Có thời điểm, họ còn nhận được chiếu lệnh và dồn dập mang theo pháp khí hướng về đỉnh núi.

Nhưng về sau, họ không còn nhớ rõ chuyện kia nữa, bởi những việc xảy ra trên Linh đài ngày hôm ấy cũng đã bị xoá bỏ hoàn toàn.

Sau chót, điều duy nhất còn đọng lại trong ký ức họ là hình ảnh linh thức Thiên Túc cưỡi gió băng tới, và kết quả mà ai ai đều biết.

Để rồi sau này, người ta thường nói, “Nếu chúng tiên trên Tiên Đô vi phạm thiên quy sẽ đến quỳ nhận thiên phạt trên mười hai đỉnh Linh đài, riêng Thiên Túc là ngoại lệ. Dầu sao, y cũng là thượng tiên duy nhất được triệu hoán thành, tồn tại độc lập không thuộc về chúng tiên. Nếu y vi phạm thiên quy thì hình phạt ắt hẳn phải khác, có lẽ nên gọi đó là lệnh cấm.”

***

Khoảnh khắc linh thức Tiêu Phục Huyên trở về cơ thể, lệnh cấm mang sắc vàng nhàn nhạt hiện lên trên tay y rồi bao bọc quanh cơ thể và tập trung ở giữa ngực. Đây là một lồng giam thầm lặng giữ chặt thân thể, nhốt y vào cánh đồng tuyết vạn dặm bên ngoài cực bắc.

Ký ức được nới lỏng từ nỗi đau như vạn kiếm xuyên tim, lại bị quét đi hết lần này đến lần khác trong vòng lưu chuyển của lệnh cấm, rốt cuộc đã bị xoá sạch.

Y vẫn thường cụp mắt nhìn bức tượng bạch ngọc kia. Rõ rằng đấy là một khối vật chết với không có mặt, mà sao y luôn cảm thấy nó nên có linh, dạn dĩ sáng ngời chêm chút phần ma mãnh.

Gương mặt nó nên đượm ý cười, tỏ nét kiêu ngạo và hơi lười biếng, và cũng sẽ thủ thỉ chuyện trò cùng y tựa chừng đang trêu đùa vui vẻ.

Thế nhưng nó không bao giờ lên tiếng.

Tất cả mọi người trên Tiên Đô đều cho rằng một Thiên Túc thượng tiên có thể trấn áp sát khí vô biên và nhẫn chịu tịch mịch bất tận thì chắc sẽ yêu chuộng sự lặng lẽ. Bản thân y cũng đinh ninh đúng thật là vậy.

Nhưng giữa lúc khép mắt ngồi giữa cánh đồng tuyết vạn dặm, có đôi lần y thình lình choàng mở mắt.

Rồi y chợt ngẩng đầu, không rõ vì sao mà giương mắt về một điểm nào đó trên cao. Cứ tưởng như từ nơi đó sẽ ngân vang tiếng chuông, hoặc sẽ có một ai đó gọi y một tiếng “Tiêu Phục Huyên”.

Thế nhưng không có.

Khung trời ở bên ngoài cực bắc trong xanh vĩnh cữu, lẫn trong tuyết trắng và sương mù miên man, bao la vô tận.

Có những lúc, lòng y chợt trỗi lên một nỗi chấp niệm muốn hoàn tất bức tượng thần kia. Kiếm khí đã tụ thành lưỡi kiếm nhọn mang theo sát ý trên đầu ngón tay, y cố mường tượng rất lâu song không tài nào biết bức tượng này nên có gương mặt ra sao.

Rồi cuối cùng, y sẽ thu kiếm khí về, cong đầu ngón tay mình chạm nhẹ bên má bức tượng thần kia.

Y cất tượng thần kia vào trong túi gấm do mình tiện tay biến hoá ra. Túi gấm màu trắng có thêu chỉ bạc, cực kỳ lạc lõng với sắc thuần đen từ trang phục với giày ủng y.

Y cầm chiếc túi gấm trong tay, ngỡ ngàng một lúc lâu rồi mới buộc nó vào bên hông.

Lệnh cấm vàng nhạt chuyển động ba ngàn ba trăm lần mỗi ngày, chẳng dừng một khắc. Theo bản năng, trái tim y cũng bị kéo theo lệnh cấm kia không ngừng.

Trước đây, cảm giác vạn kiếm xuyên tim hiện hữu mỗi ngày, để rồi mỗi ngày lòng y đều bình lặng trở lại.

Nếu nói thế gian này đã kinh qua sự xoá sổ của Linh Vương một lần, thế thì có vẻ bên ngoài cực bắc đây phải trải nghiệm xoá sổ ấy ngày ngày đêm đêm.

Hết lần này đến lần khác, một ngày không triệt, một ngày không ngưng.

Cứ thế ngày qua ngày, một trăm năm trôi đi.

***

Ngày Tiêu Phục Huyên rời khỏi cực bắc trở về Tiên Đô, dưới nhân gian vừa sang tháng ba.

Nhưng thoạt đầu y không biết.

Vì chốn Tiên Đô thênh thang này tràn đầy khói mây và ngọc bích quanh năm suốt tháng, không có mùa màng cụ thể.

Khi băng qua cổng vào Tiên Đô, bước lên nấc thang bạch ngọc cao vót dẫn lên mười hai đỉnh Linh đài trên tầng mây, chỗ xanh chỗ xám, thoắt ẩn thoắt hiện. Mấy tiên sứ Linh đài lả lướt bước ngang, nhìn thấy y thì cúi người thi lễ rồi thưa, “Thiên Túc đại nhân.”

Họ vẫn e sợ y, không dám tiếp cận và cũng không dám nhiều lời hệt như khi xưa. Thi lễ hoàn tất xong, bọn họ chỉnh tề xoay người tiếp tục tiến về Linh đài.

Khi Tiêu Phục Huyên trở về Nam Song Hạ, mười hai tiểu đồng tử kia cung kính đứng chờ bên hông cửa sân. Lúc nhìn thấy y, chúng nghiêm túc hô to, “Thưa đại nhân đã về!”

Đám tiểu đồng tử này rất vui vẻ, chúng cong đôi mắt để lộ nét cười, nhìn qua không có vấn đề gì.

Nhưng Tiêu Phục Huyên khẽ nhíu mày.

Động tác ấy thoáng vô cùng, thoáng đến mức chính bản thân y cũng không nhận ra. Chỉ vào một tích tắc nào đó, y chợt cảm thấy những tiểu đồng tử này sao mà hiền lành quá.

Các tiểu đồng tử được được Lễ các điều động sang, và Lễ các nổi tiếng cẩn trọng. Một khi họ đưa tiểu đồng tử hay tiên sứ đi đều đảm bảo chúng sẽ tuân thủ quy tắc, giơ tay nhấc chân không một động tác thừa thãi. Mấy đứa trong cung phủ y đã đỡ hơn nhiều so với các tiên sứ Linh đài rồi.

Y đã quen ở một mình, căn bản không cần đồng tử hay tiên sứ gì cả. Lẽ ra lúc trước Lễ các đưa mười hai đứa đồng tử này sang, y nên trả chúng về mới phải. Nói chung chắc y bị ma ám nên mới đổi ý.

Từ lúc y vào nhà, tiểu đồng tử đã tất bật không ngừng, chạy trước chạy sau y hòng chu toàn hết thảy mọi việc cho gọn ghẽ. Thế nhưng bọn chúng không hề tíu ta tíu tít không ngừng, bởi vậy nên dù Nam Song Hạ rộng lớn thoạt trông như có rất nhiều “người”, nhưng chẳng chút gì sôi động mà vẫn tĩnh lặng như xưa.

Chỉ vào một khoảnh khắc nào đó, có một tiểu đồng tử sẽ giọng cảm thán, “Mới đó mà đã một trăm năm rồi, thật là nhanh quá.”

Tiêu Phục Huyên đang thay quần áo thì nghe vậy, ánh mắt thoát lướt sang. Y cất giọng trầm thấp đáp lại, “Nhanh?”

Chắc tiểu đồng tử không ngờ y sẽ tiếp lời nên hoảng sợ. Phất trần đặt trên tay cậu run run, cậu lắc đầu nguầy nguậy theo bản năng. Hồi lâu sau, cậu mới kịp bình tĩnh lại, nói, “Đại nhân không cảm thấy nhanh sao?”

Tiêu Phục Huyên thu tầm mắt về, gác kiếm sang một bên, chốc nữa mới nặng giọng đáp, “Ừm.”

Bất giác, y mới sực ngỡ ra, một trăm năm với tiên nhân mà nói nào có tính là dài, có đôi khi chỉ là một chớp mắt. Còn nguyên do khiến y cảm thấy dài vô tận có lẽ bởi vì… tuyết rơi quá nặng bên ngoài cực bắc.

Y tháo túi gấm bạc bên hông mình xuống toan đặt nó sang một bên. Đến khi tay chạm vào rồi thì bất chợt sững lại.

Tiểu đồng tử đang ôm kiếm y, định chờ nhận luôn cả túi gấm đi cất một lượt thì thấy cảnh này. Cậu chớp mắt bối rối, một lúc lâu sau mới dè dặt hỏi, “Thưa đại nhân?”

Tiêu Phục Huyên hoàn hồn, thấy cánh tay vươn ra chờ mình bèn nhạt giọng đáp, “Không cần cất món này.”

Tiểu đồng tử gật đầu đã nghe, vô cùng tuân thủ kỷ luật, không tò mò thắc mắc gì thêm. Thế nhưng cậu vô tình lướt mắt nhìn vào miệng túi gấm, thấy bên trong thì “Ơ” lên một tiếng.

Tiêu Phục Huyên nhướn mi chờ cậu nói.

Tiểu đồng tử bụm miệng mình tỏ vẻ ngượng ngùng. Trong Lễ các, hành vi nhìn lén và hỏi bừa là không được phép. Bọn chúng cần phải chỉn chu muôn sự, cư xử đúng mực và lễ độ.

Nhưng đại nhân nhà cậu đang nhướn mi chờ, cậu làm sao dám không trả lời, chỉ đành ngập ngừng mà rằng, “Thưa đại nhân, ta vô tình nhìn thấy tượng thần bên trong túi gấm, vì sao tượng không có mặt thế ạ?”

Tiêu Phục Huyên trầm giọng đáp, “Chưa chạm xong.”

Y đổi trang phục sang áo bào tinh tươm không vương hạt bụi, xong xuôi lại buộc chiếc túi gấm lại vào bên hông mình. Tiểu đồng tử nhìn với vẻ tò mò, muốn hỏi vì sao lại giữ một pho tượng thần chưa chạm xong ở bên cạnh mình như vậy. Song cuối cùng, cậu cũng không cả gan hỏi ra.

Nhóm tiểu đồng tử dọn dẹp lau nhà vô cùng phép tắc, những đứa không có việc để làm thì đứng canh bên ngoài cửa, ngoan ngoãn nín thinh chứ không lắm lời tiếng nào.

Rõ ràng đây là lẽ đương nhiên, cả Tiên Đô vốn dĩ nên như thế. Nhưng sao Tiêu Phục Huyên lia mắt nhìn khắp nơi thì bất giác cảm thấy quá vô vị và tẻ nhạt.

Y có thể chấp nhận cánh đồng tuyết tịch mịch mà hiếm khi nảy lên ý nghĩ rằng nó thật “vô vị và tẻ nhạt”. Bởi vậy, suy nghĩ lần này khiến chính y cũng hơi ngạc nhiên.

Có điều, y vẫn liếc nhìn ngoài cửa sổ rồi cất bước ra cửa.

Tiểu đồng tử vội vàng nối gót theo và hỏi, “Đại nhân muốn đi đâu thế ạ?”

Theo lệ thường ở Tiên Đô, bọn chúng sẽ muốn đi theo. Thành thử một hai đứa trong chúng lập tức ngừng đứng yên gật gù, sải bước đuổi theo đại nhân nhà chúng.

May mà đại nhân nhà chúng mang vẻ mặt lạnh lùng xa cách thế thôi chứ cũng không hay làm khó chúng. Dù y không bảo cần chúng đi theo, nhưng khi nhìn thấy chúng toan chạy theo mình thì y vẫn dừng bước chân đôi chút. 

“Đại nhân có công việc cần làm sao ạ?” Tiểu đồng tử ngửa mặt lên hỏi.

Một tiểu đồng tử khác lại trả lời, “Tất nhiên là có việc cần làm rồi, cậu có bao giờ thấy đại nhân nhàn nhã đi dạo mà không có việc gì không.”

Một tiểu đồng tử khác lại gật đầu đồng tình, “Đại nhân nhà chúng ta không đi dạo, cũng không thăm hỏi.”

Quả vậy, Thiên Túc thượng tiên chưa bao giờ ghé thăm hay làm khách cung phủ vị tiên nào, và cũng chưa từng có một người nào ghé sang Nam Song Hạ.

Y vẫn luôn đơn độc hành động, ai trên Tiên Đô cũng biết chuyện này.

Thế nhưng chẳng mấy lâu sau, các tiểu đồng tử đã phát giác ra có gì đó không đúng. Lần này trông dáng bộ đại nhân nhà chúng không giống như ra ngoài làm việc, vì y không đi về phía Linh đài và cũng không có ý định xuống nhân gian. Trái lại, y phi thân mấy lần, đi mỗi lúc một sâu hơn vào Tiên Đô.

Qua một lúc lâu sau, tiểu đồng tử mới nhận ra… đại nhân nhà chúng dường như đang đi dạo thật.

Bảo là “đi dạo” cũng không thích hợp lắm, vì dù sao y cũng không có ý định lãng du qua các toà cung. Thế nhưng vẫn là cất bước vô định. Hai cậu đồng tử bị kẹt ở giữa khúc mắc đầy đầu, bối rối không thôi.

Cứ thế, họ sải bước không hề “nhàn nhã” băng qua toàn bộ Tiên Đô, đến một địa điểm rất xa xôi hẻo lánh.

Những chỗ khác trên Tiên Đô đều chằng chịt cung phủ, chỉ mỗi nơi này là không. Phóng tầm mắt quanh mây mù lững lờ nơi đây chỉ thấy một toà cung phủ bỏ hoang giữa vùng trời bao la nhường ấy, ở bên cạnh nó là Phế tiên đài cao cao. Trông qua như thể chưa từng có ai sống ở nơi này.

Người trên Tiên Đô ai cũng kiêng dè “Phế tiên đài” nên xung quanh đây hiu quạnh không bóng người, chỉ có mình Tiêu Phục Huyên đến phá tan sự tĩnh lặng.

Thời khắc ấy, một cơn gió từ nhân gian chợt thoảng qua, mang theo cánh hoa chẳng rõ bắt nguồn từ đâu. Những cánh hoa ấy lượn một vòng trong gió rồi khẽ khàng đáp xuống bệ cửa sổ của toà cung phủ không người kia.

Khoảnh khắc ấy, Tiêu Phục Huyên nhướn mắt.

Y nhìn cánh hoa lướt qua khung cửa sổ rồi ngừng trên thềm cửa sổ bạch ngọc, đọng thành một nhúm nhàn nhạt. Y đứng trong gió nheo mắt, ánh mắt thẫn thờ trên thềm cửa sổ một lúc lâu vẫn chưa hoàn hồn.

Rồi y bất giác nhớ về cánh đồng tuyết miên man bên ngoài cực bắc. Trong tầm mắt phủ đầy sắc màu nhạt nhoà rộng lớn vô bờ, còn cõi lòng y rỗng không lặng lẽ, tưởng chừng đã bị ai đó khoét mất một phần. Giờ đây chỉ còn ánh vàng nhàn nhạt của lệnh cấm đang lưu chuyển không ngừng đến hàng tỉ vòng vẫn chẳng hề dừng lại.

Tiêu Phục Huyên nhìn song cửa sổ, thấp giọng hỏi, “Hiện tại nhân gian đang tháng mấy?”

Tiểu đồng tử ngạc nhiên, trả lời, “Tháng ba, tháng ba mùa xuân ạ.”

Một tiểu đồng tử khác cũng hùa theo tiếp lời, “Vì sao đại nhân lại hỏi chuyện này thế ạ? Có phải người muốn xuống nhân gian không?”

***

Đúng như lời cậu đồng tử nói, chẳng bao lâu sau, Tiêu Phục Huyên đã nhận được một tờ thiên chiếu.

Trước đây, mỗi lần y nhận thiên chiếu đều tương tự nhau, tức là có tà ma đang hoành hành tác loạn ở nhân gian mà những tiên môn bình thường không thể chống cự nổi nên cần đến y ra tay dẹp yên tai hoạ.

Nhưng lần này thì khác, thiên chiếu lần này không bảo y đi chém giết tà ma hay dẹp yên một địa phương nào, mà bảo y đến Thương Lang Bắc Vực.

Thương Lang Bắc Vực nằm dưới sự cai quản của y, chuyên dùng để giam cầm những tà ma bị hành hình. Chỉ trong vòng vài ngày, chúng sẽ gánh nhận hết mọi khốn khổ và rơi vào kết cục hồn phi phách tán.

Tà ma dưới nhân gian nghe đến nơi này đều sợ hãi đến mất mật, song không phải tự nhiên mà Thương Lang Bắc Vực có thể dựng thẳng sừng sững như vậy. Sau mỗi tầm trăm năm, nó cần y đến bổ sung tiên linh của mình để bảo trì. Làm như vậy có thể đảm bảo nơi chúng tà ma hãi hùng vẫn vững chắc kiên cố, bình an vô sự.

Lẽ ra khi xuống nhân gian, Tiêu Phục Huyên nên đi thẳng về phía bắc. Vậy mà khi vừa đến thì y chợt nghe nói ở phía nam đã mọc lên một toà Chiếu Dạ thành…

Nghe kể rằng trong một trăm năm y ở cực bắc, có một ma đầu dựng nhà trên mảnh đất hoang ở phía nam, để rồi sau đó, toàn bộ các tà ma trên thế gian đều dời xuống tề tựu về phía nam. Mười mấy năm trôi qua, nơi đó trở thành động ma dưới nhân gian, là Chiếu Dạ thành của hiện tại. Còn ma đầu đã dựng toà phủ trạch đầu tiên kia trở thành thành chủ Chiếu Dạ thành.

Lẽ ra Tiêu Phục Huyên không nên chuyển lộ trình.

Trong trường hợp không nhận được thiên chiếu, y không thể tự tiện nhúng tay vào sự vụ dưới nhân gian.

Thế mà đêm hôm đó, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà y lại đổi hướng đi về phía nam. Y vốn chỉ định xem thử hiện giờ Chiếu Dạ thành đó đã bành trướng đến độ nào, phạm vi bao xa và trông ra làm sao.

Nếu như nơi đây là động ma như lời đồn đãi thì e rằng sớm hay muộn gì y cũng sẽ nhận thiên chiếu bình định chốn này.

Có tổng cộng hai đường nối chỗ y đến Chiếu Dạ thành. Một con đường băng qua cánh đồng Gia Minh, con đường còn lại đi qua thành trấn của bá tánh.

Y đã chọn con đường sau, bởi ở cánh đồng Gia Minh có một bức tượng thần khắc ấn của y có thể thay y theo dõi cánh đồng hoang vô tận kia. Còn con đường vào các thành trấn về đêm xem chừng nhiều hiểm nguy rình rập hơn, lúc trước vẫn thường có tà ma nhân lúc đêm thâu để lẻn vào thành gây rối.

Khi Tiêu Phục Huyên cầm kiếm trên tay và bước qua cổng thành, những ngọn đèn lồ ng được bá tánh làm nên đang giăng dài trên phố.

Những chiếc đèn lồ ng kia thắp sáng cả con đường, tô sắc lộng lẫy ánh ngời lên những toà lầu cao, phản chiếu nên ánh vàng ấm áp. Thêm vào đó, tiếng người xôn xao vang vọng từ những bức tường con hẻm, hoà quyện vào gió đêm se lạnh dưới ánh trăng xuân.

Y chợt ngừng bước, khi hoàn hồn lại đã giẫm nhẹ lên mái hiên, đáp xuống một góc trên con phố dài như bóng diều hâu.

Người ngựa trên phố tấp nập xôn xao, mấy chục người vận trang phục tiên môn bước ngang người y trong lúc đang bảo vệ những chiếc đèn trên tay.

Quái lạ thay, ngay lúc ấy y bất chợt nhớ về một địa điểm dưới nhân gian được gọi là Lạc Hoa Đài. Đo là một nơi từng sở hữu khu phố núi rộn ràng khôn kể, ánh đèn dầu thắp sáng như thân rồng, uốn lượn qua những khúc quanh đặng trải dài suốt mười hai dặm.

Y từng đến nơi đó vài lần, lần nào cũng đi hết dọc con đường ấy. Y cứ đinh ninh rằng mình chẳng có ấn tượng sâu đậm gì với nơi đó. Thế mà lúc này đây khi bất chợt nhớ lại thì y mới vỡ lẽ, hoá ra mình vẫn còn nhớ rất rõ nhiều điều nơi phố núi kia.

Quán trà ở không xa lối vào luôn nườm nượp khách ghé sang, tiếng thước gõ của ông chú kể chuyện vang đến tận bên đường. Có một số quán trọ kín phòng từ ngày này sang ngày khác, một số quán khác có chim sà đầy trước cửa. Ở nơi đó, ánh đèn được thắp từ thời điểm mở chợ thâu đêm suốt sáng, không bao giờ tắt. Càng về đêm, tiếng người càng thêm náo nhiệt.

Thường có người bán hàng rong quải những gánh trúc mang hàng bán, bên trong gánh trúc chứa đầy đồ ăn hoặc đồ chơi được trẻ em yêu thích như những chú chim đan bằng tre, các loại chuông và mặt nạ đủ kiểu.

Một số vị khách lựa chọn mê say, còn đeo thử mặt nạ lên mặt để xem có vừa hay không. Rồi đôi khi họ nhấc lên một góc mặt nạ, để lộ ra nụ cười…

***

Thời điểm đó, tiếng chiêng trống ngân vang trên đường phố khiến Tiêu Phục Huyên bất chợt hoàn hồn. Y trông thấy những ngọn đèn ngập phố đang được các bá tánh thả vào trời đêm.

Y thoáng ngước nhìn đôi chốc. Giữa lúc đưa mắt bâng quơ giữa ánh đèn đan xen vào nhau, y trông thấy một người đứng bên lan can trên lầu gian hàng đối diện.

Tầng lầu ấy không thắp đèn, góc phòng tối mù không ánh sáng, mà bóng hình người kia cũng lờ mờ không thấy rõ, không biết lúc nào sẽ phiêu tán vào màn sương mỏng theo gió đêm.

Cho đến khoảnh khắc ánh đèn dầu lung lay trước mặt tiền gian hàng.

Khoảnh khắc đó, Tiêu Phục Huyên ngửi được mùi tà ma khí trong gió và nhìn thấy đôi mắt người kia.

Thời điểm ánh đèn dầu loé qua, đôi ngươi ấy đượm sắc sáng ngời, song khi người kia hạ mi mắt thì điểm sáng ngời ấy hoàn toàn tan biến.

Loáng mắt, Tiêu Phục Huyên lại nhớ về cánh đồng tuyết bên ngoài cực bắc lần nữa. Y nhớ về thời điểm lệnh cấm trên cơ thể vừa bắt đầu chuyển động, khi đó chẳng hiểu vì sao y lại có cảm giác như bị vạn kiếm xuyên tim.

Chờ đến khi y kịp tỉnh táo lại thì nhận ra mình đã đến phía sau toà nhà, men qua khung cửa sổ mở hé để lên tầng hai tối mù không ánh sáng.

Y nhìn thấy xác tà ma chất đầy mặt đất, mỗi cái xác đều khô quắt lại. Bản thân y đã từng giao đấu với rất nhiều tà ma nên chỉ nhìn lướt qua cũng biết hiện trạng bọn chúng chính là bị tà ma mạnh hơn hút sạch toàn bộ.

Tiêu Phục Huyên giật mình ngước mắt lên, trông thấy người đứng bên lan can đang nhấc tay che đôi mắt mình, chân lùi ra sau một bước.

Ánh đèn từ phía ngoài toà nhà nán lại trước đôi ủng người kia, ánh sáng ấy mang hương vị phù văn đặc biệt chỉ dành cho đèn đuổi linh. Người kia đang tránh khỏi ánh đèn ấy và đứng vào giữa màn đêm dày đặc.

Người đó quay lưng lại Tiêu Phục Huyên, chỉ cách một bước chân.

Trên cánh tay đang buông thõng của người nọ vẫn đang nhiễu máu. Thân thể trùm kín trong tà ma khí không gì che giấu nổi, dày đặc hơn hết thảy bất kỳ tà ma nào Tiêu Phục Huyên từng chém.

Nếu nói theo lối dân gian thì đây hẳn là một ma đầu trăm năm mới gặp, và cần phải lập tức đâm trường kiếm qua tim.

Tiêu Phục Huyên nhìn người trước mặt, ngón tay thả lỏng bên người khẽ giật. Nhưng đó không phải tay cầm kiếm. Khoảnh khắc ấy, trông y như muốn nhấc tay lên để chạm vào đối phương, hoặc làm gì khác…

Nhưng rồi, y chỉ nghe thấy bản thân mình hỏi, “Ngươi là… Ô Hành Tuyết?”

Người quay lưng về phía y không nhúc nhích, dẫu đèn đuổi linh không hề chiếu vào người nữa nhưng người kia vẫn che kín đôi mắt và không ngoảnh đầu lại.

Tiêu Phục Huyên không nhìn thấy dáng vẻ người đó, không nhìn thấy đôi mắt người đó. Y chỉ nghe giọng nói kia có hơi khàn, mãi lâu sau người nọ mới thả tay xuống, đáp, “Vì sao lại nghĩ ta là Ô Hành Tuyết, ngươi quen hắn sao?”

Căn phòng chợt lặng thinh thoáng chốc, rồi giọng nói trầm ấm của Tiêu Phục Huyên vang lên.

Y nói, “Ta từng nghe nói.”

Lời tác giả:

Ngủ ngon QAQ