Tiết thu phân vừa qua, gió heo may dần dần mang cơn lạnh tới. Bởi vì đế vương ốm đau mà cung đình rộn ràng đã im ắng lại. Các nơi vẫn làm theo trình tự, chưa từng thấy khác biệt gì nhiều so với trước đây.

Cung Đan Xuyến vẫn náo nhiệt. Hoạn quan áo đỏ, cung nữ áo xanh không biết chuyển cây lựu từ chỗ nào tới để trang hoàng đình viện. Bình vương vào cung gặp mặt vừa hay đi qua bên cạnh, thấy giữa hoa lá đã kết thành quả, không khỏi bận lòng, nghĩ đến Tố Doanh lập hậu đến nay vẫn không con thì thất vọng thở dài.

Tết Trùng dương (9/9) đang đến gần, ông dâng y phục bằng vải la mặc ngày lễ lên cho hoàng hậu nên cố ý dậy sớm. Không ngờ có người còn sớm hơn cả ông. Trong cung Đan Xuyến, một cô gái xinh đẹp chừng hai mươi tuổi đang nói yết hậu ngữ[1], chính là cô con gái nhỏ Tố Lan của ông. Nàng ấy là em gái của hoàng hậu, người bên cạnh không ai không mỉm cười tâng bốc. Duy chỉ có hoàng hậu Tố Doanh tuổi tác xấp xỉ nàng ấy là có vẻ mặt nghiêm túc, không biết đang có tâm sự gì.

[1] Yết hậu ngữ: một lối nói dí dỏm trong Hán Ngữ gồm hai vế, vế trước là một ẩn ngữ (như một câu đố), với những hình tượng dí dỏm, vế sau là một câu giải, nói rõ ý chính ẩn náu trong vế trước. Người ta thường chỉ nói vế trước, lược bỏ vế sau để người khác tự đoán lấy.

Thấy cha vào cung, Tố Lan vội vàng đứng dậy làm lễ, nhân cơ hội nháy mắt. Bình vương liền biết đến không đúng lúc, cẩn thận nói vài lời khách sáo với hoàng hậu, phát hiện ra thái độ nàng đối với mình lãnh đạm hơn thường ngày rất nhiều. Ông kiên trì lấy y phục bằng vải la đặt mua bằng số tiền lớn, Tố Doanh chỉ lạnh nhạt nói một câu nhận lấy. Ông lại dâng một đồ vật hiếm có khác, thoáng lấy lại sức mạnh: “Cái này vốn là phải coi như bảo vật gia truyền nhưng nghe nói trong cung cần gấm lam nên thần mượn cơ hội này bày tỏ tấm lòng. Món đồ cổ ắt hẳn càng có thể trừ tà hơn.”

Khoảng hơn mười ngày trước, hoàng đế tin lời của một sư thầy, chỗ sinh hoạt thường ngày của hoàng đế cần dùng mành trướng màu lam, đọc gần giống với “lan (ngăn chặn)” mới có thể xua tan ma ốm. Vì phương pháp trị bệnh nửa thật nửa giả này mà trong cung treo gấm lam khắp nơi, thậm chí trên rất nhiều cây và đá cũng quấn đồ dệt màu lam. Bỗng chốc màu nhuộm lam trở thành hàng bán chạy trong kinh thành, chỉ trong một tháng mà giá đã tăng gấp tám lần.

Trước giờ Tố Doanh đều biết tính cha mình thích khoe khoang nên không để ánh mắt đầy đắc ý của ông ở trong lòng, cũng không cảm thấy một mảnh gấm bạc màu ở góc thì có gì hiếm lạ. Mặt gấm rộng ba thước vừa trải ra, nàng liền cảm thấy xấu hổ vì con mắt vụng về của mình: Mặt trên có vô số đóa hoa vàng rực rỡ, trong nháy mắt đều nở rộ ra, đẹp đến mức hút hồn. Chỉ có lác đác vài loại hoa nhưng tư thế khác nhau, vụn vặt ngang dọc, dày đặc mà không loạn. Tuy rằng đã cũ nhưng có thể nhìn ra tay nghề tinh xảo. Không khó để tưởng tượng, đây là một bức kiệt tác làm người khác chú ý cỡ nào vào năm đó.

Bỉnh nghi Thôi Lạc Hoa nhận ra món hàng, nói với Tố Doanh: “Đây là thứ ở thời hoàng đế Minh Nguyên do đám đàn bà may vá trong cung phụng chỉ chế tạo ra. Sau này qua tay nhiều người rồi rơi vào trong tay bà nội người là đại trưởng công chúa Huệ Hòa.” Nàng ấy dừng một lát rồi lại cười nói: “Có thể chứng kiến được toàn bộ cung đình lúc bấy giờ từ mặt trên đấy!” Nàng ấy nói đến điểm huyền diệu, Tố Doanh nghiêm túc nhìn kỹ, sau một lát thì thầm giật mình: Tuy là đóa hoa uyển chuyển đung đưa nhưng vị trí sắp xếp lại giống như đã từng gặp qua.

“Thì ra là bản đồ trong cung.” Tố Doanh vừa nói, vừa chỉ đó hoa hồng duy nhất ở trung tâm gấm xanh. “Nơi này không phải cung Đan Xuyến sao? Ba đóa hoa hồng, hoa trắng hơi nhỏ ở phía Tây là cung Ngưng Phương, cung Ngưng Hoa, cung Đam Thúy. Những đóa hoa nhỏ hơn là các cung các viện.” Nói đến đây, nàng chợt dừng lại, bỗng nhiên nghĩ: Vì sao màu sắc của tẩm cung phi tần lại khác biệt?

Thôi Lạc Hoa thấy nàng cứng đờ, nhỏ giọng nhắc nhở: “Thứ nương nương thấy không phải “cung đình”, chỉ là “cung điện” mà thôi.” Một câu nói làm cho Tố Doanh không biết đáp lời ra sao, “à” một tiếng: “Thứ kỳ quặc thế này đáng để tỉ mỉ thưởng thức đấy.”

Tất nhiên Bình vương biết sự ảo diệu trong đó, ở bên lặng lẽ mỉm cười. Tố Lan nghe nói vật ấy hiếm có, cũng tiến lại gần xem cho tường tận. Tố Doanh đưa tay vuốt ve những đường thêu vàng bạc đan xen này, hoa chạm đến ngón tay lần lượt lấp lánh. Nàng thán phục tay nghề hoàn mỹ, đầu ngón tay di chuyển theo đường thêu, đột nhiên có cảm giác: “Quả thực không phải cung viện mà là chủ nhân của cung viện. Thì ra trong hậu cung của vua Minh Nguyên cũng hoa nở đỏ trắng, phe phái rõ ràng như thế này.”

Thôi Lạc Hoa nói: “Vị hoàng hậu đầu tiên của vua Minh Nguyên còn trẻ đã qua đời vì bệnh. Khi chọn vị hoàng hậu thứ hai, ban đầu hoàng đế hướng về Nguyên phi của cung Ngưng Phương cho nên ở trên bản vẽ này, ngài ấy là một đóa hoa hồng khác.”

Nàng ấy vốn luôn bình thản với mọi việc mà giờ trong giọng nói đầy sự sùng bái, Tố Doanh không khỏi càng thêm để tâm đối với câu chuyện nàng ấy kể.

“Nhưng từ khi hoàng hậu mất, cung Ngưng Phương không ngừng xảy ra chuyện. Phần nhiều là việc nhỏ nhặt không đáng kể: Mấy chục ngọn đèn trong cung lần lượt nổ hoa đèn, dọa không ít người; đồng hồ nước tự dưng tràn nước; sách vở vốn đang yên lành, lúc xoay người nhìn lại trở thành giấy trắng không chữ không nét vẽ; hương trong lư hương được thêm theo quy củ, không khác gì so với những cung viện khác nhưng đến cung Ngưng Phương lại sinh ra mùi hắc và âm thanh đáng sợ; ban đêm cởi quần áo màu xanh ra, sáng sớm ngày hôm sau lại biến thành sắc rêu rất khó coi. Xúc cảm của vật liệu may mặc vẫn như hôm qua, hoa văn, đường cắt rõ ràng là bộ trước kia, ngay cả chỗ đường may rất nhỏ cũng giống nhau như đúc, chỉ có màu sắc là thay đổi hoàn toàn… Bất luận trách phạt người trong cung thế nào, chuyện lạ vẫn liên tiếp xuất hiện. Nguyên phi vô tội, không có một việc nào có thể đổ tội cho, nhưng vua Minh Nguyên mê tín, cho rằng là điềm xấu. Dần dà lại có lời đồn đãi nói là hoàng hậu trước quấy phá, mọi người bắt đầu hoài nghi Nguyên phi có liên quan đến cái chết của hoàng hậu trước. Có điều việc lên án này không còn cách nào kiểm chứng, không giải quyết được gì. Trì hoãn hai ba tháng, cuối cùng người được sắc lập làm hậu không phải Nguyên phi mà là Quý phi.”

Thôi Lạc Hoa chỉ vào đóa hoa nhỏ màu đỏ mỏng manh yếu ớt thêu trên tấm mành tượng trưng cho Nguyên phi, nói: “Khiến hoa đèn trong cung của ngài ấy nổ, đồng hồ nước tràn nước, sách tranh mất tích, hương xông biến chất, quần áo mất màu… càng khó hơn so với hạ độc ngài ấy, nguyền rủa ngài ấy, hãm hại ngài ấy. Việc này ắt được phân phó đến tay của nhiều cung ty khác nhau, nhưng Quý phi có thể để cho bọn họ cùng nhau làm việc. Bà không chỉ là một đóa hoa trắng xinh đẹp mà còn là trung tâm của tất cả dây leo cuốn thêu màu bạc.”

Đường thêu màu bạc trắng đã không thể chói mắt giống như năm xưa nhưng theo sự nhẹ nhàng tiếp xúc của nàng, mỗi một dây leo màu trắng ở trong góc đều sống động, cả mảnh gấm xanh vẫn bị chúng nắm giữ vững vàng… Tố Doanh thở dài một hơi: “Nếu đã có loại thủ đoạn này, hà tất bỏ dễ cầu khó?”

“Vua Minh Nguyên mất mẹ từ nhỏ nên càng căm hận phi tần hậu cung tranh chấp. Giả sử Nguyên phi thân là người được chọn hậu đột nhiên chết đi lúc còn tại ngôi hậu, có thể sẽ làm cho ngài coi tất cả phụ nữ trong hậu cung là hung thủ, vứt bỏ họ mà tìm hoàng hậu khác.” Thôi Lạc Hoa không hề hoang mang mà trả lời: “Vua Minh Nguyên thường xuyên nhấn mạnh ngài hận nhất là việc trong hậu cung có người chết oan chết uổng. Quý phi phong hậu, ba mươi hai năm hậu cung thái bình. Việc này ở hậu cung của Tố thị có thể so với kỳ tích. Phu quân và bà kính nhau cả đời, sau bà chết, lúc chúng thần bàn về tên thụy cũng được thêm sự tôn sùng: Dịu dàng thánh thiện, lời hay cung kính.”

“Ra là hoàng hậu Ý Tịnh.” Tố Doanh cười lạnh một tiếng: “Những người phụ nữ kia không chỉ không thể giành được cung Đan Xuyến từ trong tay bà mà còn không dám cấu kết dưới ánh mắt nhìn chăm chăm của bà nên chỉ có thể ngây dại sống đến tóc bạc da mồi.”

Không có đối tượng mong muốn, đương nhiên sẽ không có cái chết vô nghĩa.

Thôi Lạc Hoa sờ bức gấm xanh kia, nói: “Thứ trong tay nương nương chính là di vật của người phụ nữ ấy – hoàng hậu Ý Tịnh, bà nội của đương kim thánh thượng, Tố Như Thận của họ Tố ở Thái An.” Thôi Lạc Hoa cuộn gấm xanh lại, mặt trái có ba chữ mực. Chữ không lớn nhưng ngòi bút tung bay, kết cấu không tầm thường: “Vào cung tám năm đã có thành tựu này, chắc hoàng hậu Ý Tịnh cũng rất tự phụ.”

“Bài ca bước lên trời?” Tố Doanh lẳng lặng đọc thành tiếng.

“Cung đình trong mắt bà không phải từng tòa cung điện nghiêm ngặt theo cấp bậc mà là chỗ ở đỉnh, ở lằn ranh của cõi người giao thoa với chín tầng trời. Đại đa số người ở đây chỉ có thể nhìn được một tầng chỗ mình ở chứ hoàn toàn không biết chuyện kế tiếp, càng không cách nào lý giải trọn vẹn chuyện gì đang xảy ra ở tầng trên. Người leo lên từ phía dưới, đạp lên thang lầu dựng từ hoa thường đi không vững. Nhưng bà đã làm được, không chỉ đi lên đỉnh cao còn thông suốt nhìn xuống chín tầng trời.” Thôi Lạc Hoa ngừng một lát rồi lại nói: “Ngay cả như vậy, bà vẫn không quên kiềm chế bản thân. Bà vốn định làm một bài hát ở mặt sau nhưng chỉ viết ba chữ đã dừng bút. Nói cho cùng, đây chỉ là cầu thang xây trên tơ lụa, đi lặng lẽ thì sẽ không sai.”

Thôi Lạc Hoa xoay mặt về phía Tố Doanh mà cười: “Thói quen cũ của thần vẫn không sửa được, lại lắm miệng ngay trước mặt nương nương…”

Nàng ấy từng là thầy dạy của chị em Tố Doanh, Tố Lan khi chưa xuất giá, Tố Doanh luôn luôn kính nàng ấy, cất tiếng “Không ngại” rồi lại xoay mặt nói với Bình vương: “Đưa một đồ vật như vậy vào cung là có ý gì?”

Bình vương chỉ nhân cơ hội dâng vật quý, trừ điều đó ra chưa từng suy nghĩ nhiều. Thấy con gái lại giận tái mặt, ông giật mình không rõ vì sao nàng lại không vui. Tố Doanh lạnh mặt hỏi: “Cha không biết bây giờ là cục diện gì hay sao?”

Bình vương trả lời theo bản năng: “Biết.”

Hoàng đế ốm đau, Đông cung lĩnh binh ngăn cản kẻ địch mạnh ở biên giới phía Tây. Dựa theo truyền thống của đế quốc, cung đình lúc bấy do hoàng hậu làm chủ bên trong, tể tướng làm chủ bên ngoài. Đế quốc này còn có một truyền thống khác ẩn bên trong – người nắm giữ nhiều hơn phải chuẩn bị chịu nhiều công kích hơn. Quốc gia có trữ quân thành niên, đa số bề tôi không muốn thấy hoàng hậu thừa dịp phu quân có bệnh mà từ phía sau màn đi ra trước đài. Tố Doanh biết đối chọi với triều thần không có lợi lộc gì, vì vậy ở thời cơ nắm quyền tốt nhất này, nàng lại bày ra vẻ nhu nhược thuận theo tự nhiên của mình trước mặt họ.

“Cả đời hoàng hậu Ý Tịnh vô cùng mạnh mẽ, ba chữ “bộ thiên ca” sắc bén dọa người. Cha muốn tôi cầm thứ này đến trước mặt thánh thượng, thị uy với đế vương đang ốm đau sao?” Tố Doanh vung tay lên làm rơi mảnh gấm xanh mỹ lệ xuống đất, dọa Bình vương run cầm cập. Ông nhận tội lia lịa, lòng cũng thầm trách mình nhiều chuyện, đang êm đẹp lại tới trêu chọc đứa con gái cả nghĩ.

Tố Doanh đứng lên đi ra ngoài cửa, đứng ở trước bậc nhìn ngắm bốn bề: Đóa hoa đỏ như lửa rực rỡ nở đầy sân. Nàng chỉ tùy tiện nói một câu mùa thu ở cung Đan Xuyến quá lạnh lẽo buồn tẻ, thêm ít hoa diễm lệ mới tốt. Rất nhanh, sắc màu ấm đã có thể thấy khắp nơi trong ngày thu đang chín.

Bình vương thấy nàng nhìn chằm chằm cây lựu, cho là nàng cũng nghĩ đến điều giống mình. Ông lại thở dài, liếc mắt nhắm thấy hoàng tôn đẹp đẽ hoạt bát trong lòng cung nữ thì lòng vừa đố kị vừa lo lắng. “Nương nương, thánh thượng có trời cao phù hộ, long thể khôi phục là chuyện sớm muộn. Nương nương còn trẻ, dù sao vẫn còn có cơ hội…”

“Không cần Bình vương rầu rĩ.” Giọng nói của Tố Doanh lanh lảnh lưu loát, ngữ điệu cũng không ôn hòa quá mức. Trong bụi cây lựu chợt có một nhóm hoạn quan áo đỏ bước vào, mỗi người khiêng một bó gậy dài sơn đỏ. Bọn họ khom người đặt gậy gộc ở dưới bậc rồi nhanh chóng rút đi. Tố Doanh không để cho phụ thân có nhiều thời gian suy đoán. “Nghe nói gần đây tổng quản Tố Bình của quý phủ đã mua một chỗ đất đẹp ở ngoại ô, xây nhà cưới bà lẽ thứ tư. Việc này không phải là giả chứ?”

Bình vương giật mình, gật đầu nói: “Quả thực là vậy.”

Tố Doanh cười nhạt một tiếng: “Người có biết đất của y từ đâu ra không? Và ả đàn bà kia đến từ chỗ nào?” Thấy vẻ mặt Bình vương hoang mang, nàng lại nói: “Trước giờ cha cai quản không nghiêm, tiểu thư không như ý là bọn đầy tớ trong phủ cũng không coi ra gì ngay. Bây giờ bọn họ làm gà chó ở nhà mẹ đẻ của hoàng hậu, chỉ sợ càng thêm đắc ý, làm chuyện xấu thành quen, cho rằng trên đời không có mấy người có thể quản được bọn họ rồi nhỉ?”

Bình vương nghe giọng điệu của con gái, đã chột dạ vài phần, lúng ta lúng túng nói: “Là thần không biết quản giáo…”

Tố Doanh hừ một tiếng, chỉ vào chỗ gậy gộc ấy nghiêm nghị bảo: “Đây là đồ thưởng cho phủ Bình vương. Sau này quý phủ có người tranh chấp với dân thường thì bất kể đúng sai, chẳng phân chủ tớ, cứ đánh ba mươi trượng trước. Đầy tớ mà dám cả gan ỷ thế hiếp người, làm xằng làm bậy thì đánh bảy mươi trượng rồi giao cho quan phủ!”

“Nương nương…”

Tố Doanh đi xuống bậc thềm, khom lưng rút từ một bó gậy dài ra một cây, giao vào tay Bình vương, nói tiếp: “Cây này để lại cho tổng quản Tố Bình của quý phủ. Dùng như thế nào trong lòng người chắc đã rõ ràng.”

Bình vương nhận cây gậy sơn đỏ, sắc mặt trắng bệch. Tố Doanh phất tay áo đi về cung, bỏ lại một mình ông lúng túng hành lễ, lĩnh xong một trăm cây gậy thì tức giận rời cung.

Tố Lan đi theo sau lưng Tố Doanh, cười xòa nói: “Chị vì việc nước quên tình nhà, làm cho người bên ngoài xem rồi thôi, cần gì làm cho cha không còn mặt mũi ngay trước mặt chúng người trong cung như vậy chứ?”

Tố Doanh quét mắt liếc nàng ấy, ánh mắt như băng như tuyết. “Từ nhỏ trong nhà đã bồi dưỡng cô xem xét thời thế, sao cô lại nói ra lời thế này? Vì sao vị chủ nhân đầu tiên của cung Đan Xuyến – Tố thái hậu tổ tiên của chúng ta – lại mất đi tòa cung điện này? Không phải vì người nhà của cụ làm mưa làm gió, dân oán quan chê, lỡ miệng để người ta đàm tiếu à? Tôi không trông mong cha thay da đổi thịt, chỉ cần một năm này ông an phận đừng làm loạn thêm thì tôi đã bớt lo rồi.”

Tố Lan hé miệng cười cười: “Trước nay em biết nương nương cẩn thận, nhưng vẫn không nhịn được quan tâm nương nương mù quáng.” Nàng ấy nhìn chị mình, hỏi tựa như đang đùa: “Gần đây nương nương làm sao vậy? Trái “một năm”, phải “một năm”, em ngờ ngợ đã nghe qua nhiều lần thì phải.”

Tố Doanh né tránh, bình thản nói một câu với nàng ấy: “Tôi không thể gặp cha nhiều, cô còn phải khuyên ông ấy thêm.”

Tố Lan biết hỏi nữa cũng không có kết quả bèn cười nói: “Nhìn sắc mặt vừa rồi của Bình vương, em đã biết là phải tiện đường về nhà mẹ đẻ một chuyến rồi.”

Nàng ấy đi rồi, cung Đan Xuyến bỗng nhiên quạnh quẽ. Cả người Tố Doanh giống như bị rút hết sức lực, chậm rãi thở dài. Khoảnh khắc uể oải trôi qua rất nhanh, nàng nhặt gấm xanh trên đất lên, nói với Thôi Lạc Hoa: “Hoàng hậu Ý Tịnh là một nhân vật, câu chuyện nhất định không chỉ như thế.”

Thôi Lạc Hoa chỉ vào người trong cung trồng cây lựu ngoài cửa sổ, hỏi: “Ngày sau nương nương có thể nhận ra được mấy ai trong số đó?” Tố Doanh nhìn trong đám hoạn quan cung nữ bận rộn không có ai quá thân thiết, chậm rãi lắc đầu. Thôi Lạc Hoa cười nói: “Hoàng hậu Ý Tịnh có thể nhớ kỹ mỗi người mà chỉ gặp mặt một lần, từ tên, sinh nhật, quê quán đến chức vị không sai một mảy may, làm người ta được yêu mến mà lo sợ.”

“Chà!” Tố Doanh thán phục một tiếng, chợt dịu dàng cười nói: “Đầy tớ có suy nghĩ tự cầu phúc của đầy tớ, chưa chắc thích bị người có địa vị cao nhớ kỹ. Cần gì sinh ra một chuyện, để cho bọn họ cả ngày nơm nớp lo sợ?”

Thôi Lạc Hoa cũng biết không nên lỡ lời so sánh hai vị hoàng hậu, rũ mắt xuống, hạ thấp giọng nói tiếp: “Nương nương nói phải. Mỗi người hoàng hậu đều có thủ đoạn của mình. Quan trọng nhất là họ đều biết làm sao để trở thành hoàng hậu mà phu quân cần. Không làm như vậy… thì họ sẽ rơi từ trên đỉnh trời xuống.”

Tim Tố Doanh run lên, bỗng cảm thấy thê lương, chợt âm thầm giễu cợt chính mình: Thứ vô dụng nhất giờ này khắc này chính là sa sút tinh thần. Nàng không thể lãng phí thời gian trong chuyện đa sầu đa cảm. Đặt gấm xanh ở bên cạnh, nàng không nhanh không chậm đổi đề tài: “Thôi bỉnh nghi, tôi nhớ thầy có giao tình không tầm thường với Vương Thu Oánh, không gì là không nói. Vì sao gần đây lại có vẻ hờ hững? Xảy ra chuyện gì thế? Có cần tôi hoà giải không?”

Thôi Lạc Hoa nghe xong lời này không thể không sinh ra cảnh giác, bèn vội vàng nói: “Thần và cô ấy không hề hờ hững.”

“Không có là tốt rồi.” Tố Doanh cười một tiếng, còn nói: “Thầy tìm cô ấy đến đây đi. Chúng ta đến cung Ngọc Tiết một chuyến.”

Cung Ngọc Tiết là tẩm cung của mẹ đẻ hoàng đế lúc làm phi, nhiều năm qua vẫn để không. Hoàng đế muốn thanh tịnh nên dứt khoát vào trong đó dưỡng bệnh. Nhất cử nhất động của hắn từ trước đến nay đều bị người khác phỏng đoán, vào ở cung Ngọc Tiết mà không phải cung Đan Xuyến lại khiến hậu cung có thêm rất nhiều suy đoán. Lúc Khâm phi – cô của Tố Doanh – bái kiến đã đề cập đến mấy lần, bóng gió bảo Tố Doanh khuyên hoàng đế chuyển chỗ ở đến cung Đan Xuyến. Nhưng Tố Doanh lại cho rằng công việc của cung Đan Xuyến đột nhiên tăng lên, không phải nơi để dưỡng bệnh, không hề đề cập tới việc di giá trước mặt hoàng đế. Mỗi ngày nàng đi lại giữa hai cung, ân cần phụng dưỡng, dần dần mọi người cũng tập mãi thành quen.

Thôi Lạc Hoa biết Tố Doanh muốn đi thăm bệnh, nhỏ giọng nhắc nhở: “Sáng sớm công chúa Chân Ninh đã cầm nhiều đèn hoa cúc đến xin thánh thượng vẽ lên. Lúc này sợ rằng vẫn còn nấn ná ở cung Ngọc Tiết đấy.”

Tố Doanh đang ôm hoàng tôn Duệ Hâm từ trong lòng cung nữ, không để lời này ở trong lòng, vừa chọc Duệ Hâm cười, vừa chớp chớp mắt với Thôi Lạc Hoa: “Thầy ơi, thầy biết khi còn bé chữ đầu tiên tôi biết nói là gì không?” Không đợi Thôi Lạc Hoa trả lời, Tố Doanh đã nói: “Là “cha”. Có lẽ mẹ tôi vì muốn ông ấy vui nên chỉ dạy tôi một chữ ấy.” Nàng lại hỏi: “Thầy đoán xem lúc A Thọ mở miệng nói chuyện sẽ nói cái gì? Là “nương nương” hay là “nương” đây?” Nàng cười giảo hoạt.

Thôi Lạc Hoa tính vốn hay lo, vừa nghe thấy thế không khỏi lại sinh ngờ vực, cuống quýt xin cáo lui đi tìm Vương Thu Oánh. Trên đường vừa lúc gặp phải, nàng ấy vội vàng kéo đến chỗ yên tĩnh nói chuyện, hỏi thẳng không vòng vo: “Bệnh của thánh thượng còn có thể kéo dài bao lâu?”

Nhưng Vương Thu Oánh không trả lời, thản nhiên hỏi lại: “Là nương nương muốn hỏi hay là người bên ngoài muốn hỏi?”

“Là tôi hỏi.” Thôi Lạc Hoa nói rồi thở dài một hơi: “Hôm nay nương nương nói bóng nói gió, trách cứ tôi không thể lấy được tin tức mà người mong muốn từ chỗ cô. Đó là thứ tôi nên biết. Nếu không, tôi sẽ vô dụng với người.”

Nói đến nước này, Vương Thu Oánh im lặng, rũ mắt xuống rồi mới chậm rãi bảo: “Bệnh của thánh thượng là điều cấm kỵ không thể nói. Tôi không thể nói với cô được.” Thôi Lạc Hoa nhìn nàng ấy không chớp mắt lấy một cái, Vương Thu Oánh chỉ đành lắc đầu nói: “Là khâm mệnh của thánh thượng. Thánh ý khó trái.” Nàng ấy không giỏi giấu giếm, tuy chỉ có mười chữ nhưng đã làm cho Thôi Lạc Hoa nhạy bén nghĩ ra manh mối, thoải mái nói: “Thu Oánh, tính cách cố chấp của cô vẫn không thay đổi.”

Vương Thu Oánh cười thoải mái. Thôi Lạc Hoa không lạc quan giống như nàng ấy, lắc đầu nói: “Điều tôi lo lắng chính là sự “không thay đổi” của cô. Nếu cô có thể thay đổi, chuyển ánh mắt của mình từ trên đám thảo dược khô héo về phía khuôn mặt hay thay đổi của mọi người thì tốt rồi.”

“Tôi chẳng qua chỉ là một vị khách qua đường, sẽ không ở mãi chỗ này. Nặn mình thành hình dạng của cung đình, ra khỏi cửa cung thì phải làm thế nào?” Vương Thu Oánh khẽ cười một tiếng, hai người cùng nhau đi về phía cung Đan Xuyến. Đi được mấy bước, Vương Thu Oánh chợt nhớ tới một chuyện, lấy ra từ trong tay áo một chiếc hộp tròn màu bạc đưa cho Thôi Lạc Hoa: “Tôi thấy rất nhiều cung nữ trao đổi cái này nên cũng làm một ít cho cô.”

“Đường phèn hạt sen?” Thôi Lạc Hoa vừa mở ra xem, cười rộ lên: “Sắp qua Trùng dương, lại đến thời gian đám cung nữ kết bái rồi. Cô không tính ở chỗ này sống hết đời thì cần gì chuẩn bị món quà tiêu khiển cho đỡ tịch mịch này?”

“Tôi nghe nói giữa các cung nữ rất thân thiết, cùng nhau chia đường phèn hạt sen ăn thì chính là chị em hạt sen, thề đồng cam cộng khổ, sau này sẽ giống như người nhà.” Vương Thu Oánh ngó mắt nhìn nàng ấy, thấp giọng nói: “Lạc Hoa, cô sợ tôi không hiểu khuôn mặt người khác, tôi lại lo lắng về sau cô càng ngày càng khó khăn. Thứ nương nương muốn biết càng ngày càng nhiều. Cô muốn biết trước tất cả mọi chuyện sẽ phải khiến mình bận bịu lắm.”

Thôi Lạc Hoa im lặng đi tiếp, buồn bã nói: “Lúc người mười hai tuổi, tôi đã cảm thấy người rất đặc biệt nhưng chẳng bao giờ nghĩ tới người thật sự có thể trèo lên ngôi hậu. Càng không ngờ tới, khi người hai mươi tuổi sẽ có cảnh tượng như vậy. Họ Thôi vẫn làm thầy của họ Tố nhưng biểu hiện của Tố thị luôn có thể khiến chúng tôi kinh hãi.”

“Cho nên vị trí hoàng hậu chẳng bao giờ rơi khỏi tay của Tố thị. Nương nương của chúng ta cũng chảy dòng máu họ Tố.” Không biết Vương Thu Oánh nhớ tới điều gì mà vẻ mặt ảm đạm đi: “Chỉ mong nương nương có thể muốn gì được nấy.”

“Hả?” Thôi Lạc Hoa kinh ngạc nhìn nàng ấy một cái, không biết lời như vậy sao lại được nói ra từ trong miệng nàng ấy.

“Cô không nhìn thấy đêm hôm thánh thượng hôn mê tỉnh lại, vẻ mặt của nương nương dường như đã biến thành một người khác sao?” Nàng ấy thở hắt ra thật dài, tựa như nhắc tới lại khó hiểu: “Cho tới bây giờ tôi vẫn không ngờ người cẩn thận nhu nhược như người cũng sẽ có ánh mắt kiên quyết như thế. Giống như là… người sắp chết là người vậy. Trong những tháng ngày không nhiều còn lại, người sẽ không nể tình đá văng kẻ ngăn cản chuyện của mình đâu.”

Họ cùng rẽ vào một góc, cung Đan Xuyến đã đường hoàng ở trước mắt. Trước khi vào cung, Thôi Lạc Hoa là thầy của hoàng hậu, sau khi vào cung, nàng ấy là nữ quan của hoàng hậu. Dường như nàng ấy là người trong cung ở cùng hoàng hậu lâu nhất. Song nàng ấy cũng bắt đầu cảm thấy, không có ai có thể ỷ vào lai lịch mà nói mình hiểu rõ kẻ đứng đầu hậu cung.

Cung Đan Xuyến am hiểu cách đắp nặn nên một hoàng hậu hơn so với bất cứ kẻ nào.