SAM ĐẾN BÁO TIN CHO TÔI LÚC MƯỜI MỘT GIỜ. “Họ sẽ bắt giam Jason ngay khi anh ta tỉnh lại, Sookie à, mà có vẻ chẳng lâu nữa đâu.”

Sam không nói làm sao anh biết được chuyện đó, và tôi cũng chẳng hỏi.

Tôi nhìn anh chăm chăm, nước mắt lăn dài trên má. Nếu vào một ngày khác, có lẽ tôi đã nghĩ đến chuyện trông mình xơ xác đến thế nào khi khóc, nhưng hôm nay không phải ngày để quan tâm đến chuyện nhan sắc. Tôi đang gặp rắc rối nghiêm trọng, lo sợ cho Jason, buồn chuyện của Amy Burley, giận dữ vì nhầm lẫn ngu ngốc của cảnh sát, và ẩn dưới tất cả những cảm xúc đó, là nỗi nhớ Bill da diết.

“Họ nghĩ có vẻ như Amy Burley đã gây chiến. Họ nghĩ anh ta đã uống say sau khi giết cô ta.”

“Cảm ơn vì đã báo cho em, Sam à.” Giọng tôi như cất lên từ một nơi rất xa nào đó. “Anh nên đi làm thôi.”

Sau khi Sam đã nhận ra tôi cần được ở một mình, tôi gọi đến tổng đài hỏi số điện thoại của Máu Trong Phố. Tôi quay số, chẳng hiểu sao cứ cảm thấy như mình đang làm một chuyện gì đó Xấu xa.

“Máuuuuu... Trong Phố xin nghe,” một giọng nói trầm trầm đột ngột vang lên. “Quan tài của bạn khi xa nhà.”

Chúa ơi. “Xin chào. Tôi là Sookie Stackhouse, gọi từ Bon Temps,” tôi lịch sự nói. “Tôi cần để lại một lời nhắn cho Bill Compton. Anh ấy là khách ở đây.”

“Răng nanh hay người?”

“À... răng nanh.”

“Làm ơn đợi một chút.”

Sau một lúc giọng nói trầm trầm đó lại vang lên. “Lời nhắn là gì, thưa cô?”

Tôi chần chừ một lúc.

“Làm ơn nhắn với ông Compton rằng... anh trai tôi vừa bị bắt, và tôi sẽ rất cảm kích nếu anh ấy về nhà ngay khi hoàn thành xong công chuyện.”

“Tôi ghi lại rồi.” Tiếng bút nguệch ngoạc. “Cô nhắc lại tên được không?”

“Stackhouse. Sookie Stackhouse.”

“Được rồi, thưa cô. Tôi sẽ để lại lời nhắn cho anh ấy.”

“Cảm ơn.”

Và đó là việc duy nhất tôi có thể nghĩ ra được, cho đến khi nhận ra sẽ thực tế hơn rất nhiều nếu tôi liên lạc với Sid Matt Lancaster ngay, ông ta cố hết sức ra vẻ kinh hoàng khi nghe tin Jason sẽ bị bắt, hứa hẹn sẽ cấp tốc đến bệnh viện ngay khi xong việc ở tòa án chiều nay, và rằng anh ta sẽ thông báo lại tình hình với tôi.

Tôi lái xe trở lại bệnh viện xem có được phép ngồi với Jason cho đến khi anh tỉnh lại không. Họ không cho tôi làm thế. Tôi băn khoăn không biết có phải anh đã tỉnh lại nhưng họ không cho tôi biết hay không? Tôi nhìn thấy Andy Beliefleur ở cuối hành lang, và hắn quay lại, rẽ sang hướng khác.

Thằng hèn.

Tôi trở về nhà vì chẳng biết phải làm gì khác. Tôi nhận ra dù sao hôm đấy mình cũng được nghỉ làm, một chuyện tốt dù vào lúc này tôi thật ra cũng chẳng quan tâm lắm. Tôi chợt nghĩ rằng mình đã không xử lý mọi việc tốt đẹp như đáng ra phải thế, rằng hồi bà mất tôi đã tỏ ra bình tĩnh hơn nhiều.

Nhưng hồi đó mọi chuyện không phải đã lâm vào ngõ cụt. Chúng tôi sẽ chôn bà, kẻ sát hại bà sẽ bị bắt, và chúng tôi sẽ tiếp tục sống. Nếu cảnh sát quả thật tin rằng Jason đã giết bà cũng như những người khác, thì thế giới này đúng là một nơi ghê tởm và bấp bênh mà tôi chẳng muốn tồn tại trong đó nữa.

Nhưng tôi vỡ lẽ ra, sau một buổi chiều dài đằng đẵng ngồi nhìn chăm chăm về phía trước, rằng chính sự ngây thơ của mình đã dẫn đến việc Jason bị bắt. Nếu tôi đưa anh vào trong toa xe moóc của Sam, lau rửa sạch sẽ cho anh rồi giấu cuộn băng đi cho đến khi tìm hiểu được nội dung trong đó, và trên hết là không gọi xe cứu thương... đó chính là những gì Sam đã tính đến khi anh ấy nhìn tôi với vẻ nghi ngờ như vậy. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Arlene đã không cho tôi có lựa chọn nào khác. Tôi nghĩ điện thoại sẽ bắt đầu réo ầm ĩ ngay khi mọi người biết tin. Nhưng chẳng ai gọi cả.

Họ không biết phải nói gì.

Sid Matt Lancaster đến vào khoảng bốn rưỡi chiều.

Không cần chào hỏi dông dài, ông ta nói luôn, “Họ bắt anh ấy rồi. Tội danh giết người mức độ một.”

Tôi nhắm mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, Sid đang nhìn tôi, trên khuôn mặt ôn hòa toát lên vẻ thấu hiểu. Cặp kính gọng đen kiểu cổ điển càng làm nổi bật đôi mắt màu nâu bùn, còn bộ xương hàm cùng với chiếc mũi gãy làm ông ta trông có phần giống một con chó săn.

“Anh ấy bảo sao?” tôi hỏi.

“Rằng hôm qua anh ấy đã qua đêm cùng với Amy.”

Tôi thở dài.

“Anh ấy khai rằng họ đã lên giường cùng nhau, và đó không phải là lần đầu tiên. Anh ấy nói đã lâu rồi không gặp Amy, và lần gần đây nhất họ ở cùng nhau, Amy có vẻ ghen với những phụ nữ mà anh ấy gặp gỡ, cực kỳ tức giận. Nên anh ấy rất ngạc nhiên khi tối qua được cô ta chủ động tiếp cận ở quán Phút Giây Hạnh Phúc. Jason bảo cả đêm Amy đã cư xử rất kỳ lạ, cứ như thể cô ta có những kế hoạch bí mật nào đó. Anh ấy nhớ đã làm tình với cô ta, nhớ cả chuyện sau đó họ nằm trên giường uống rượu, nhưng chẳng nhớ đã có chuyện gì từ lúc đó cho đến khi tỉnh dậy trong bệnh viện.”

“Anh ấy bị gài bẫy rồi,” tôi khẳng định, nghe chẳng khác gì một bộ phim dở ẹc.

“Tất nhiên rồi.” Mắt Sid Matt toát lên vẻ chắc chắn và quả quyết cứ như thể ông ta đã có mặt ở chỗ Amy Burley tối qua vậy.

Trời ạ, có thể lắm chứ.

“Nghe này, Sid Matt.” Tôi rướn người về phía trước để ông ta có thể nhìn thẳng vào mắt tôi. “Kể cả vì lý do nào đó mà tôi tin rằng Jason đã giết Amy, Dawn và kể cả Maudette nữa, tôi cũng không bao giờ tin anh ấy dám làm tổn thương bà.”

“Thôi được rồi.” Sid Matt đã sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ của tôi, thẳng thắn và không úp mở, cơ thể ông ta đã nói lên điều đó. “Cô Sookie ạ, cứ giả sử rằng Jason có liên quan phần nào đến những cái chết đó đi. Mà cảnh sát cũng có thể nghĩ ông bạn Bill Compton của cô đã giết bà của cô vì bà cụ ngăn cản chuyện của hai người.”

Tôi cố tỏ ra là mình đang cân nhắc câu nói ngu si này. “Thế này nhé, Sid Matt, bà tôi thích Bill, và bà hạnh phúc khi thấy tôi hẹn hò với anh ấy.” Trước khi Sid Matt đeo lại bộ mặt chuyên nghiệp, tôi thoáng nhận thấy ánh mắt nghi ngờ của ông ta. Ông ta sẽ chẳng đời nào vui vẻ nổi nếu con gái mình hẹn hò với ma cà rồng. Ông ta không thể tưởng tượng nổi bất kỳ bậc cha mẹ có trách niệm nào lại không phản đối chuyện đó. Và Sid cũng chẳng thể tưởng tượng nổi cảnh ông ta phải cố gắng thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng bà tôi rất vui vẻ khi tôi hẹn hò với một gã thậm chí chẳng còn sống nữa, thêm vào đó lại còn già hơn tôi đến hàng trăm tuổi. Đó là suy nghĩ của Sid Matt.

“Ông gặp Bill bao giờ chưa?” tôi hỏi. Ông ta có vẻ chưng hửng. “Chưa,” ông ta thú nhận. “Cô biết đấy, cô Sookie, tôi không ủng hộ chuyện ma cà rồng này. Tôi nghĩ đã có một kẽ nứt trên bức tường mà chúng ta đáng lẽ phải không ngừng xây dựng, một bức tường ngăn cách giữa chúng ta và những kẻ được-coi-là nhiễm-vi-rút ấy. Tôi nghĩ Chúa muốn có bức tường đó, và riêng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ khu vực do mình phụ trách.”

“Vấn đề nằm ở chỗ, chính tôi đã được Ngài tạo ra để đứng trên bức tường ngăn cách đó đấy, Sid Matt.” Sau suốt hai mươi lăm năm giữ im lặng về “món quà” của mình, tôi nhận ra nếu có thể giúp được Jason, tôi sẵn sàng cho tất cả mọi người biết sự thật.

“Ừm,” Sid Matt nói với vẻ gan góc, đẩy cặp kính cho ngay ngắn trên sống mũi gẫy. “Tôi chắc chắn Chúa Lòng Lành có lý do riêng khi mang đến cho cô cái vấn đề rắc rối mà tôi đã nghe nói đến đó. Cô cần phải học cách sử dụng nó để vinh danh người.”

Chưa có ai hiểu vấn đề của tôi theo cách đó. Và tôi sẽ suy ngẫm về ý tưởng này khi nào có thời gian.

“Tôi e rằng chúng ta đã lạc đề rồi, và tôi biết thời gian của ông rất quý giá.” Tôi tập trung suy nghĩ. “Tôi muốn bảo lãnh Jason ra khỏi tù. Vẫn chưa có bằng chứng cụ thể kết tội anh ấy đã giết Amy, phải không?”

“Anh ấy đã thú nhận là mình ở cùng nạn nhân ngay trước khi vụ ám sát xảy ra, và theo lời bóng gió khá lộ liễu của một tay cớm thì cuốn băng video đã cho thấy cảnh anh trai cô làm tình với nạn nhân. Và thời gian in trên phim chỉ ra rằng nó đã được quay ngay trước khi cô ta chết vài giờ, thậm chí có khi không quá một tiếng đồng hồ.”

Quỷ tha ma bắt cái thú vui giường chiếu của Jason đi. “Jason không uống nhiều rượu. Mà lúc ở trong xe tải, người anh ấy nồng nặc mùi cồn. Tôi nghĩ người khác đã đổ rượu lên người anh ấy. Tôi nghĩ chỉ cần làm xét nghiệm là sẽ chứng minh được điều đó ngay thôi. Có thể Amy đã pha ma túy vào rượu của Jason.”

“Sao cô ta lại làm thế chứ?”

“Bởi, giống như tất cả những phụ nữ khác, cô ta phát điên lên với Jason vì quá thèm muốn anh ấy. Anh trai tôi có thể cưa đổ bất cứ cô nàng nào mà anh ấy muốn. Đấy là tôi còn nói trại đi nhiều rồi đấy.”

Sid Matt trông có vẻ ngạc nhiên khi tôi biết từ đó.

“Gần như anh ấy có thể lên giường với bất kỳ ai anh ấy muốn. Một cuộc sống trong mơ với hầu hết mọi gã trai.” Tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời. “Và giờ thì anh ấy đang ngồi trong tù.”

“Cô nghĩ là có kẻ khác đã gây ra chuyện này? Đổ tội giết người cho Jason?”

“Phải, tôi tin vậy.” Tôi rướn người về phía trước, cố gắng dùng niềm tin sắt đá của mình thuyết phục viên luật sư đa nghi. “Kẻ nào đó ganh tị với Jason. Kẻ biết rõ lịch trình của anh ấy và đã giết những người phụ nữ đó khi Jason không đi làm. Kẻ biết rằng Jason đã quan hệ với tất cả những cô gái đó. Kẻ biết rằng anh ấy thích quay phim chuyện đó.”

“Có thể là bất kỳ ai,” tay luật sư của Jason nhìn nhận một cách thực tế.

“Phải,” tôi nói với giọng ủ dột. “Kể cả khi Jason có đủ tử tế để giữ im lặng về danh tính những phụ nữ anh ấy đã lên giường cùng thì ai cũng đều có thể thấy người ra khỏi quán bar cùng Jason lúc quán đóng cửa. Chỉ cần là người biết quan sát, hoặc có thể đã hỏi về những cuốn băng khi đến nhà anh ấy.” Anh trai tôi có thể là một kẻ đồi bại theo nghĩa nào đó, nhưng tôi không nghĩ anh ấy lại cho bất kỳ ai khác xem những cuốn băng này. Tuy nhiên, có thể Jason đã kể cho một gã đàn ông khác rằng anh ấy thích quay băng. “Vậy, gã này, bất kể gã là ai cũng vậy, đã thỏa thuận với Amy, biết rằng cô nàng đang tức giận Jason. Có lẽ hắn nói với cô ta rằng hắn đang định chơi khăm Jason một vố, hay sao sao đó.”

“Anh trai cô chưa bao giờ bị bắt,” Sid Matt nhìn nhận.

“Chưa từng.” Mặc dù theo lời Jason thì cũng một đôi lần xém chút là chuyện đó xảy ra rồi.

“Không tiền án tiền sự, một thành viên trung thực của cộng đồng, công việc ổn định. Có khi tôi xin bảo lãnh cho anh ấy được. Nhưng nếu anh ấy bỏ trốn, chúng ta sẽ mất tất cả.”

Tôi chưa bao giờ nghĩ Jason sẽ vắng mặt tại phiên tòa. Tôi không biết chút gì về việc bảo lãnh, chẳng hiểu mình phải làm những gì, nhưng tôi muốn Jason ra khỏi tù. Chẳng hiểu sao, ở trong tù đợi cho đến khi mọi quy trình pháp luật trước vụ xử được xong xuôi... chẳng hiểu sao, chuyện đó khiến anh ấy giống kẻ phạm tội hơn.

“Anh tìm hiểu rồi cho tôi biết phải làm gì nhé,” tôi nói. “Trong thời gian đó, tôi có thể đến thăm anh ấy không?”

“Anh ấy không muốn vậy,” Sid Matt đáp.

Chuyện này làm tôi tổn thương kinh khủng. “Tại sao?” tôi hỏi, cố hết sức để không òa khóc.

“Anh ấy xấu hổ,” viên luật sư đáp. Thật thú vị khi nghĩ đến chuyện Jason cũng biết xấu hổ.

“Thôi vậy,” tôi nói, cố gắng tiếp tục, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi với buổi gặp gỡ khó chịu này. “Hãy gọi cho tôi nếu cần tôi làm bất cứ việc gì nhé?” Sid Matt gật đầu, quai hàm hơi rung rung. Tôi đã làm ông ta khó chịu. Chắc hẳn ông ta mừng lắm khi được ra khỏi đây.

Viên luật sư lái xe đi, giữa chừng ấn chiếc mũ cao bồi lên trên đầu.

Khi trời tối hẳn, tôi ra ngoài xem Bubba thế nào. Anh ta đang ngồi dưới gốc sồi già, máu nhân tạo đóng chai xếp thành hàng ở hai bên, một bên là chai đã cạn, bên kia chai vẫn còn đầy.

Tôi mang theo đèn pin, và dù biết rõ Bubba đang ở đó, tôi vẫn giật mình khi thấy anh ta dưới ánh đèn. Tôi lắc mạnh đầu. Thật sự đã có chuyện không ổn khi Bubba “ghé qua”, chắc chắn vậy. Tôi thành thực mừng rằng mình không đọc được tâm trí của Bubba. Đôi mắt anh ta làm tôi ghê sợ.

“Chào cưng,” anh ta nói bằng giọng miền Nam nặng trịch. “Em thế nào rồi? Thích anh bầu bạn hả?”

“Em chỉ muốn chắc rằng anh thấy thoải mái,” tôi nói.

“Có những chỗ thoải mái hơn nhiều, nhưng vì em là bồ của Bill nên anh sẽ không nói về những chỗ đó đâu.”

“Tuyệt,” tôi đáp giọng chắc nịch.

“Có chú miu nào gần đây không? Anh chán ngấy những thứ chai lọ này rồi.”

“Không có mèo. Em chắc rằng Bill sẽ về sớm thôi, rồi anh sẽ được về nhà.” Tôi rảo bước quay vào nhà, không thoải mái lắm khi nói chuyện với Bubba, nếu ta có thể gọi đó là một cuộc nói chuyện. Tôi băn khoăn không hiểu Bubba nghĩ gì trong suốt những đêm dài canh gác; không biết anh ta có nhớ về quá khứ của mình không.

“Chú chó sao rồi?” anh ta gọi với theo.

“Nó về nhà rồi,” tôi hét lại qua vai.

“Tệ thật,” Bubba lẩm nhẩm, nhỏ đến nỗi tôi gần như không nghe thấy.

Tôi dọn giường đệm sẵn sàng. Tôi xem ti vi. Tôi ăn ít kem, và thậm chí đã cắt một thanh Heath Bar để làm lớp phủ. Những thứ bình thường vẫn làm tôi thấy dễ chịu riêng tối nay lại chẳng hề phát huy hiệu quả. Anh trai tôi ở trong tù, bạn trai ở New Orleans, bà vừa mất, và có kẻ đã giết con mèo của tôi. Tôi không lúc nào không thấy cô đơn và cám cảnh cho bản thân mình.

Đôi khi, bạn phải đương đầu với đủ vấn đề trên đời.

Bill không gọi điện lại.

Hành động đó chẳng khác gì đổ thêm dầu vào ngọn lửa thống khổ trong lòng tôi. Có thể anh ấy đã tìm thấy một nàng bán hoa dễ dãi nào đó ở New Orleans, hoặc một ả nhân tình răng nanh, giống như những kẻ đêm đêm vẫn lảng vảng ở Máu Trong Phố, hy vọng được “vui vẻ” cùng ma cà rồng.

Nếu là một con sâu rượu, tôi sẽ uống cho đến khi say bí tỉ. Nếu là một phụ nữ bình thường, tôi sẽ gọi chàng JB du Rone dễ thương đến để làm tình. Nhưng tôi không phải loại người sầu bi hay mạnh mẽ đến thế, vậy nên tôi chỉ ăn kem và xem những bộ phim cũ rích trên ti vi. Tình cờ làm sao, người ta đang chiếu Blue Hawaii[4]. Cuối cùng đến nửa đêm thì tôi cũng đi ngủ.

[4] Hawaii xanh thẳm, một bộ phim ra đời năm 1961 với sự góp mặt của Elvis Presley.

Một tiếng hét thất thanh ngoài cửa sổ phòng ngủ đánh thức tôi. Tôi ngồi thẳng dậy trên giường. Tôi nghe tiếng đánh đấm, tiếng thình thịch, và cuối cùng là một tiếng hét mà tôi dám chắc là giọng Bubba, “Quay lại đây, thằng chết dẫm kia!”

Sau một vài phút không thấy có thêm động tĩnh gì, tôi khoác áo choàng tắm rồi đi về phía cửa trước. Sân nhà, dưới ánh sáng đèn bảo vệ, vắng tanh vắng ngắt. Tôi thoáng thấy có chuyển động bên tay trái, và khi thò đầu ra khỏi cửa, tôi thấy Bubba, đang chậm chạp bước về chỗ ẩn náu của mình.

“Có chuyện gì thế?” tôi hỏi khẽ. Bubba chuyển hướng và lừ đừ đi phía hiên.

“Chắc chắn là một con lợn nào đó, thông cảm nhé, đã lảng vảng xung quanh ngôi nhà,” Bubba nói. Đôi mắt nâu sáng lên, và anh ta trông càng giống con người trước đây của mình. “Anh nghe thấy tiếng hắn vài phút trước khi hắn đến đây, và cứ tưởng đã tóm được hắn rồi. Nhưng hắn chạy tắt qua rừng, và hắn đã đậu sẵn xe tải bên đường.”

“Anh có nhận ra hắn không?”

“Không rõ lắm,” Bubba nói với vẻ ngượng ngùng. “Hắn lái một chiếc xe bán tải, nhưng đến màu sắc anh cũng không nhận ra được. Tối quá.”

“Nhưng anh đã cứu mạng em,” tôi nói, hy vọng giọng mình toát lên được sự biết ơn chân thành. Tôi cảm thấy trào dâng tình yêu dành cho Bill vì đã sắp xếp người bảo vệ tôi. Kể cả Bubba trông cũng có vẻ tử tế hơn hẳn. “Cảm ơn anh, Bubba à.”

“Ôi, đừng bận tâm,” anh ta hòa nhã đáp, và đúng giây phút anh ta đứng thẳng dậy, tóc hất ngược ra đằng sau, nụ cười mơ màng trên khuôn mặt... đó là anh ta, và tôi đang định nói ra cái tên đó thì những lời cảnh báo của Bill quay trở lại khiến tôi im bặt.

JASON ĐƯỢC BẢO LÃNH ngay ngày hôm sau.

Việc này tốn cả đống tiền. Tôi ký mọi thứ giấy tờ mà Sid Matt bảo ký, mặc dù trong số tài sản bảo lãnh, phần lớn là nhà, xe và chiếc thuyền câu cá của Jason. Nếu Jason từng có lần bị bắt, kể cả là do vi phạm luật giao thông đi nữa, tôi tin rằng anh còn lâu mới được phép nộp tiền bảo lãnh.

Tôi đứng trước cửa tòa án, dưới cái nắng gắt cuối buổi sáng, trong bộ đồ tệ hại màu xanh hải quân. Mồ hôi túa ra trên mặt, chạy xuống kẽ môi mang lại một cảm giác khó chịu làm ta chỉ muốn đi tắm ngay lặp tức. Jason dừng lại ngay trước mặt tôi. Tôi không biết chắc anh sẽ nói gì. Khuôn mặt anh già xọm. Những rắc rối nghiêm trọng đang đè nặng lên vai anh, những rắc rối nghiêm trọng không dễ gì được xoa dịu hay xóa bỏ, hệt như đối với sự đau khổ.

“Anh không thể nói gì với em về chuyện này,” anh nói, nhỏ đến nỗi tôi gần như không nghe thấy được. “Em biết đó không phải là anh. Sự bạo lực của anh cùng lắm cũng chỉ ở mức tranh cãi ẩu đả ngoài bãi xe vì một cô ả nào đó.”

Tôi chạm vào vai anh, rồi buông thõng xuống khi không thấy anh phản ứng gì. “Em chưa bao giờ nghĩ đó là anh. Và sẽ không bao giờ nghĩ vậy. Em xin lỗi vì đã ngu ngốc gọi 911 ngày hôm qua. Nếu biết đó không phải máu của anh, em đã đưa anh tới xe Sam để lau rửa sạch sẽ, rồi đốt cuốn băng đó đi. Em quá sợ hãi, cứ tưởng đó là máu của anh.” Tôi cảm thấy mắt mình ầng ậc nước. Nhưng đây không phải lúc để khóc, và tôi mím chặt môi, cảm thấy khuôn mặt mình căng ra. Tâm trí Jason là một đống hỗn loạn, không khác gì một cái chuồng heo tâm tưởng.

Trong đó đang sôi sục một hợp chất độc hại trộn giữa nỗi hối hận, sự xấu hổ vì thói quen tình dục bị công khai, cảm giác tội lỗi vì đã không thấy buồn đau gì trước cái chết của Amy, nỗi sợ hãi rằng bất cứ ai trong thị trấn cũng có thể nghĩ anh đã giết chính bà của mình trong lúc nằm chờ cô em gái.

“Chúng ta sẽ vượt qua mọi chuyện,” tôi bất lực nói.

“Chúng ta sẽ vượt qua mọi chuyện,” anh lặp lại, cố nói một cách mạnh mẽ và tự tin. Nhưng tôi nghĩ sẽ phải mất một thời gian, một thời gian rất lâu thì sự tự tin, vốn là nhân tố quyết định mang lại nét quyến rũ khôn cưỡng của Jason, mới quay trở lại trong dáng điệu, nét mặt và giọng nói của anh.

Mà cũng có thể chẳng bao giờ.

Chúng tôi chia tay ở đó, trước cửa tòa án. Chẳng có gì để nói nữa cả. Tôi ngồi ở quán suốt cả ngày, nhìn những người đàn ông bước vào và rà soát tâm trí họ. Chẳng ai trong số đó nghĩ rằng mình đã giết bốn người phụ nữ mà cho đến giờ vẫn thoát được lưới trời. Vào giờ ăn trưa, Hoyt cùng Rene bước qua cửa, nhưng lập tức trở ra khi thấy tôi ngồi đó. Có lẽ họ quá xấu hổ nếu nói chuyện với tôi. Cuối cùng, Sam bắt tôi về. Anh bảo trông tôi đáng sợ đến nỗi sẽ đuổi bất kỳ vị khách nào có thể mang đến thông tin hữu dụng.

Tôi lê bước ra ngoài trời giữa cái nắng chang chang. Mặt trời sắp lặn rồi. Tôi nghĩ về Bubba, về Bill, về tất cả những sinh vật sắp thức dậy từ giấc ngủ sâu để bước đi trên mặt đất Tôi dừng xe ở Grabbit Kwik để mua sữa ăn kèm ngũ cốc điểm tâm. Nhân viên bán hàng mới của cửa hàng là một thằng nhóc mặt đầy mụn với yết hầu to tướng, và nó nhìn tôi hăm hở như cố in sâu vào trong đầu hình ảnh em gái một tay sát nhân. Tôi dám chắc nó chỉ mong tôi rời đi cho chóng để nó có thể chộp lấy điện thoại gọi cho bạn gái. Nó đang mong sao có thể nhìn thấy những vết răng trên cổ tôi. Nó cũng băn khoăn không biết có cách nào để biết ma cà rồng hút máu kiểu gì không.

Đó là những thứ rác rưởi mà tôi phải nghe hàng ngày. Dù có cố gắng tập trung vào những thứ khác thế nào đi chăng nữa, dù có giữ cho rào chắn tâm trí vững vàng đến đâu chăng nữa, và dù nụ cười có rạng rỡ ra sao thì tôi vẫn không ngăn được những thứ rác rưởi như thế lọt vào đầu mình.

Tôi về đến nhà khi trời sắp tối. Sau khi cất sữa và cởi đồ, tôi mặc quần soóc, áo phông Garth Brooks và cố nghĩ xem tối nay mình nên làm gì.

Tôi không thể ngồi yên đọc sách được; và nếu muốn làm vậy thì tôi cũng phải ghé qua thư viện để đổi sách mới, chuyện này thì quả tình bất khả thi. Chẳng có chương trình hay ho gì trên ti vi, ít nhất tối nay là vậy. Tôi nghĩ mình có thể xem lại phim Trái tim dũng cảm: Hình ảnh Mel Gibson mặc váy Scotland luôn là yếu tố làm tinh thần hưng phấn. Nhưng bộ phim lại quá máu me so với tâm trạng của tôi. Tôi chẳng thể chịu nổi cảnh cô gái bị cắt cổ, mặc dù tôi thừa biết mình cần bịt mắt lại vào lúc nào.

Vừa vào phòng tắm để rửa sạch lớp trang điểm nhễ nhại mồ hôi thì, qua tiếng nước chảy, tôi nghĩ mình nghe thấy một tiếng mèo kêu bên ngoài.

Tôi tắt vòi nước. Tôi đứng yên, cảm thấy sợi dây cảm ứng trong mình đang rung lên bần bật, và căng tai ra lắng nghe. Cái quái gì...? Nước trên mặt tôi nhỏ tong tong xuống chiếc áo phông.

Không âm thanh. Chẳng có tiếng động nào cả.

Tôi rón rén tiến về phía cửa trước, vì đó là nơi gần với điểm canh gác của Bubba ở trong rừng nhất.

Tôi mở hé cửa. Tôi hét to, “Bubba?” Không có ai trả lời.

Tôi thử lần nữa.

Tôi cảm thấy dường như đến cả ếch nhái côn trùng cũng đang nín thở. Đêm tối tĩnh mịch đến mức có thể nắm bắt được từng chuyển động. Có thứ gì đó đang lảng vảng ngoài kia, trong màn đêm dày đặc.

Tôi cố suy nghĩ, nhưng tim tôi đập thình thịch khiến tôi không sao tập trung được.

Trước tiên phải gọi cảnh sát.

Tôi nhận ra đó không phải một lựa chọn. Điện thoại hỏng rồi.

Vậy một là tôi ở yên trong nhà chờ rắc rối đến với mình, hai là đi thẳng vào rừng.

Đây là một quyết định khó khăn. Tôi cắn môi, đi quanh nhà để tắt đèn, cố vạch ra một kế hoạch hành động.

Căn nhà có một số phương tiện bảo vệ: khóa, tường, các ngóc ngách và góc khuất. Nhưng tôi biết, nếu thật sự quyết tâm, bất kỳ kẻ nào cũng có thể dễ dàng lọt vào nhà, và lúc đó thì tôi chết chắc.

Được rồi. Làm sao tôi có thể ra ngoài mà không bị phát hiện bây giờ? Trước tiên, tôi tắt đèn ngoài sân.

Cửa sau gần khu rừng hơn, vậy nên đó sẽ là một lựa chọn đúng đắn. Tôi rành rẽ về khu rừng. Tôi có thể trốn trong đó đến khi trời sáng. Tôi cũng có thể ghé sang nhà Bill; chắc chắn điện thoại nhà anh đang hoạt động, mà tôi lại có chìa khóa nhà.

Hoặc tôi có thể tìm cách chạy ra xe và rồ máy phóng đi. Nhưng như thế tôi sẽ mất vài giây ở yên một chỗ. Không, cánh rừng có vẻ là lựa chọn khả quan hơn.

Tôi đã nhét chìa khóa nhà Bill vào túi quần, kèm theo con dao gấp của ông vốn vẫn được bà cất trong chiếc tủ ở phòng khách để mở bao bì. Ở túi bên kia, tôi nhét chiếc đèn pin siêu nhỏ. Bà còn để một khẩu súng trường cũ trong tủ đựng áo khoác cạnh cửa trước. Khẩu súng thuộc về bố tôi hồi bố còn nhỏ, và bà chủ yếu dùng nó để bắn rắn; vậy đấy, giờ tôi cũng đang có một con rắn cần triệt hạ đây. Tôi ghét khẩu súng chết tiệt đó, ghét nghĩ đến việc phải dùng nó, nhưng có lẽ, giờ đã đến lúc rồi.

Nó không còn ở đó nữa.

Tôi không thể tin vào các giác quan của mình. Tôi sục sạo khắp cả tủ. Hắn đã vào nhà tôi!

Nhưng không phải do đột nhập.

Hắn đã được tôi mời vào. Ai đã từng đến đây? Trong lúc đi về phía cửa hậu, tôi cố liệt kê tất cả những người từng xuất hiện trong nhà, tôi đã buộc lại dây giày để không vướng víu. Tôi túm vổng tóc lên, hầu như chỉ bằng một tay, để chúng không xòa xuống mặt, rồi lấy dây chun buộc lại. Nhưng suốt thời gian đó, tôi không ngớt nghĩ về khẩu súng bị mất cắp.

Ai đã ở nhà tôi chứ? Bill, Jason, Arlene, Rene, hai đứa trẻ, Andy Bellefleur, Sam, Sid Matt; tôi dám chắc tất cả bọn họ đều được ở một mình khoảng một hai phút, có lẽ đủ lâu cho họ thó khẩu súng ra khỏi tủ để sau này đến lấy lại.

Rồi tôi nhớ lại hôm tang lễ. Khi bà mất, hầu như tất cả mọi người tôi quen biết đều đã ra vào ngôi nhà, và tôi không nhớ nổi kể từ sau hôm đó tôi có lần nào nhìn thấy khẩu súng ấy không. Nhưng thật khó có thể mang theo khẩu súng mà đường hoàng đi ra khỏi một ngôi nhà đông đúc tấp nập. Và nếu nó biến mất lúc đó, tôi nghĩ mình hẳn sẽ phát hiện ra ngay rồi. Thực ra tôi tin rằng mình chắc chắn sẽ phát hiện ra.

Tôi buộc phải dẹp chuyện đó sang một bên để tập trung tìm cách đánh lừa kẻ đang ẩn trong bóng đêm ngoài kia.

Tôi mở cửa sau. Cúi thấp hết mức, tôi lò dò ra ngoài và nhẹ nhàng khép cánh cửa lại. Thay vì đi qua bậc thềm, tôi ngồi xổm trên hiên, duỗi thẳng một chân ra, khẽ đập đập xuống mặt đất; tôi dồn trọng lượng xuống bên chân này rồi kéo nốt chân kia xuống. Tôi lại cúi xuống. Y hệt hồi nhỏ chơi trốn tìm với Jason ở trong rừng.

Tôi thầm cầu mong không phải mình lại đang chơi trốn tìm với Jason.

Đầu tiên tôi nấp sau những chậu hoa um tùm bà trồng hồi trước, rồi bò đến chiếc xe của bà, đích đến thứ hai.

Tôi ngước nhìn trời. Trăng tròn vành vạnh, và đêm quang quẻ đủ để những ngôi sao lộ diện. Không khí ẩm ướt, và trời vẫn nóng. Cánh tay tôi chẳng mấy chốc rít rịt mồ hôi. Bước tiếp theo, từ chiếc xe đến cây mimosa.

Lần này tôi không di chuyển lặng lẽ được. Tôi vấp phải gốc cây và ngã phịch xuống đất. Tôi cắn răng ngăn tiếng hét. Cơn đau buối nhói ở chân và hông, và tôi biết cái gốc cây lởm chởm đã rạch khá sâu vào bắp chân mình. Sao trước đây tôi không nghĩ ra mà đốn quách gốc cây này đi cho rồi chứ? Bà đã nhờ Jason nhưng anh ấy cứ lần lữa mãi.

Tôi lắng nghe, cảm nhận, di chuyển. Không còn nghĩ gì đến cẩn với chẳng thận nữa, tôi bật dậy và lao vội về phía hàng cây. Ai đó đang đâm xuyên qua bìa rừng bên phải, hướng thẳng đến chỗ tôi. Nhưng tôi biết mình phải đi đâu, và trong một cú bật cao đến không ngờ, tôi tóm được một cành tháp trên cái cây hồi bé hai anh em thường leo trèo, rồi đu người lên. Nếu tôi có thể sống đến ngày hôm sau, những bắp thịt hẳn sẽ đau nhức, nhưng cũng đáng mà. Tôi giữ thăng bằng trên cành cây, cố thở khẽ khàng trong khi chỉ mong sao được thở hổn hà hổn hển và rên lên như con chó đang mơ.

Tôi ước gì đây chỉ là một giấc mơ.

Ấy vậy nhưng chẳng thể phủ nhận được rằng, tôi, Sookie Stackhouse, cô hầu bàn có khả năng đọc tâm trí người khác, đang ngồi trên một cành cây trong rừng vào giữa đêm khuya khoắt, chẳng có thứ vũ khí nào ngoài con dao gấp.

Có chuyển động ngay bên dưới tôi, một gã đàn ông đang băng qua đám cây cối. Trên cổ tay hắn lủng lẳng một sợi thừng dài. Ôi, Chúa ơi. Dù trăng sáng vằng vặc, nhưng khuôn mặt hắn khuất sau bóng cây, và tôi không thể nhận ra đó là ai. Hắn đi ngay dưới chỗ tôi mà không hề hay biết. Khi hắn đi khuất tầm mắt, tôi mới dám thở. Lặng lẽ hết mức, tôi bò xuống. Tôi bắt đầu hành trình xuyên qua rừng để đến đường cái. Sẽ mất thời gian, nhưng nếu ra được đường cái, có thể tôi sẽ vẫy được chiếc xe nào đó. Rồi tôi nhớ ra con đường bình thường vốn ít người qua lại đến mức nào; có lẽ an toàn nhất là đi xuyên qua nghĩa trang để đến nhà Bill. Tôi nghĩ đến khu nghĩa trang ban đêm, nghĩ đến kẻ sát nhân đang truy đuổi mình, và rùng mình.

Có sợ thêm nữa cũng chẳng để làm gì. Tôi phải tập trung vào thực tại. Tôi quan sát từng điểm đặt chân, di chuyển chậm rãi. Một cú ngã sẽ gây nên âm thanh không nhỏ trong không gian tĩnh mịch đến nhường này, và hắn sẽ chộp được tôi trong phút chốc.

Tôi tìm thấy xác một con mèo cách cái cây tôi vừa trốn khoảng mười mét về hướng Đông Nam. Cổ họng con mèo đã bị rách. Tôi chẳng thể nhận ra màu lông của nó là gì dưới ánh trăng trắng lóa, nhưng những vệt đen xung quanh cái xác nhỏ bé kia chắc chắn là máu. Thêm vài bước chân rón rén nữa, tôi tìm thấy Bubba. Anh ta đang bất tỉnh hoặc đã chết. Với một ma cà rồng, thật khó để phân biệt được hai chuyện này. Nhưng chẳng có chiếc cọc nào đóng xuyên qua tim anh ta, và chiếc đầu vẫn còn đó, tôi có cơ sở để hy vọng rằng anh ta chỉ bất tỉnh mà thôi.

Chắc hẳn đã có kẻ mang cho Bubba con mèo bị đánh thuốc. Kẻ nào đó biết chuyện Bubba đang canh gác cho tôi và đã nghe nói về sở thích hút máu mèo của anh ta.

Tôi nghe thấy tiếng răng rắc đằng sau mình. Tiếng cành cây gẫy. Tôi luồn vào bóng cây lớn nhất gần đó. Tôi giận điên lên, giận dữ lẫn sợ hãi, và tôi không biết đêm nay mình có chết không.

Tôi có thể không có khẩu súng trường, nhưng tôi vẫn còn một thứ vũ khí của riêng mình. Tôi nhắm mắt lại, và để mặc tâm trí mình tự do.

Mớ hỗn độn tối tăm, màu đỏ, màu đen. Sự căm thù.

Tôi do dự. Nhưng đây là chuyện cần thiết, đây là sự bảo vệ duy nhất tôi có được. Tôi gỡ bỏ mọi sự phòng vệ. Đầu óc tôi tràn ngập những hình ảnh buồn nôn và ghê tởm. Dawn đang yêu cầu ai đó đánh mình rồi phát hiện ra trên tay hắn là chiếc tất dài của cô ta, và hắn đang dùng ngón tay kéo căng nó ra, sẵn sàng siết quanh cổ Dawn. Một hình ảnh thoáng qua về Maudette, trần truồng và khẩn nài. Một phụ nữ tôi chưa bao giờ gặp, tấm lưng trần quay về phía tôi đầy những vết thâm tím và vệt máu. Và bà của tôi - người bà thân yêu của tôi - trong căn bếp quen thuộc của chúng tôi, đang giận dữ chống lại cái chết.

Tôi đờ người ra vì choáng váng và kinh hoàng. Đây là những ý nghĩ của ai? Tôi bắt gặp hình ảnh lũ trẻ của Arlene, đang chơi trên sàn phòng khách nhà tôi; tôi thấy chính mình, nhưng trong một diện mạo hoàn toàn khác. Trên cổ là một cái lỗ rộng ngoác, và tôi là một ả dâm dục; tôi đang liếc mắt đưa tình với vẻ đĩ thõa, và tôi vỗ vỗ vào háng mình với vẻ mời gọi.

Tôi đang ở trong tâm trí của Rene Lenier. Đây chính là cách Rene nghĩ về tôi.

Rene đang điên cuồng giận dữ.

Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao mình chẳng bao giờ đọc được rõ ràng tâm trí hắn; hắn giữ tất cả những suy nghĩ đó trong một góc bí mật, một nơi trong tâm trí được hắn giấu giếm che đậy khỏi chính ý thức của hắn. Bây giờ hắn đang nhìn thấy một hình dáng đằng sau một thân cây, và băn khoăn tự hỏi nó có giống với hình dáng phụ nữ hay không.

Hắn đang nhìn thấy tôi.

Tôi phóng vọt lên và chạy thẳng hướng Tây về phía nghĩa trang. Tôi chẳng thể lắng nghe tâm trí hắn nữa bởi bộ não của tôi giờ đang tập trung vào chuyện chạy, tránh những chướng ngại vật như cây cối, bụi rậm, cành cây gãy, một rãnh nước mưa nhỏ. Đôi chân khỏe mạnh của tôi guồng nhanh, đôi tay vung mạnh, và hơi thở như ống bễ.

Tôi thoát ra khỏi rừng và chạy vào nghĩa trang. Khu vực lâu đời nhất của nghĩa địa này nằm ở phía Bắc, trên đường tới nhà Bill, và đó là nơi ẩn trốn tốt nhất. Tôi nhảy qua một tấm bia theo kiểu hiện đại, được đặt gần như nằm ngang với mặt đất, chẳng thể coi là một chỗ trốn an toàn. Tôi nhảy qua mộ của bà, đất vẫn còn thô, đá chưa được lát. Kẻ đã sát hại bà bám theo tôi. Như một con ngốc, tôi quay lại nhìn xem hắn còn cách mình bao xa, và dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ mồn một mái tóc bờm xờm của Rene khi hắn tăng tốc đuổi theo tôi.

Tôi chạy xuống vùng lòng chảo hơi trũng do nghĩa trang này tạo nên, rồi bắt đầu chạy nước rút về phía bên kia. Khi cho rằng đã có đủ những tấm bia rộng bản và các bức tượng ngăn cách giữa mình và Rene, tôi liền ẩn mình đằng sau một cột đá granite cao có gắn cây thánh giá trên đỉnh. Tôi đứng thẳng, ép sát vào lớp đá cứng lạnh lẽo.

Tôi chặn bàn tay ngang mồm để ngăn những tiếng nức nở đang chực thoát ra khỏi lồng ngực. Tôi buộc mình phải thật bình tĩnh để có thể lắng nghe Rene; nhưng những ý nghĩ của hắn chẳng đủ mạch lạc để tôi có thể giải mã được, trong tâm trí hắn chỉ toát lên sự căm phẫn. Rồi, tôi bất chợt nảy ra một ý nghĩ.

“Em gái mày,” tôi hét lên. “Cindy còn sống chứ, Rene?”

“Đồ con lợn!” hắn ré lên, và trong chính khoảnh khắc đó, tôi nhận ra nạn nhân đầu tiên chính là em gái Rene, cô em gái thích ma cà rồng, cô em gái mà theo lời Arlene thì hắn đáng lẽ ra vẫn thi thoảng thăm viếng. Rene đã giết Cindy, cô em gái làm nghề phục vụ bàn, khi cô ấy vẫn đang mặc bộ đồ trắng sọc hồng đồng phục của căn tin bệnh viện. Hắn đã xiết cổ cô bằng sợi dây tạp dề. Và hắn làm tình với Cindy, sau khi cô đã chết. Hắn cho rằng Cindy đã lậm quá sâu rồi, chẳng còn bận tâm gì đến chính anh trai mình nữa. Bất cứ ai để ma cà rồng làm vậy với mình đều đáng chết. Và hắn đã giấu xác cô ấy đi để tránh sự ô nhục. Những nạn nhân khác chẳng phải máu mủ gì; cứ để họ nằm chết ở đó cũng chẳng sao.

Tôi bị hút vào trong cái thế giới bệnh hoạn của Rene giống như cành cây con bị cuốn theo xoáy nước, và nó làm tôi dao dộng. Đến khi tôi tự làm chủ được tâm trí mình, hắn đã nằm đè lên tôi rồi. Hắn dồn hết sức đấm vào mặt tôi, chờ đợi tôi gục xuống.

Cú đánh làm gãy sống mũi tôi và khiến tôi đau đớn đến mức suýt ngất đi, nhưng tôi vẫn không gục xuống. Tôi đấm lại hắn. Sự thiếu kinh nghiệm làm đòn đánh hầu như chẳng tác dụng. Tôi chỉ thụi vào xương sườn, và hắn rên lên, nhưng hắn đã trả đòn ngay lập tức.

Nắm đấm của hắn đánh gẫy xương đòn của tôi. Nhưng tôi không gục xuống.

Hắn đã không biết tôi khỏe đến thế nào. Dưới ánh trăng, gương mặt hắn lộ rõ vẻ choáng váng khi thấy tôi trả đòn, và tôi thầm cảm ơn Chúa vì mình đã được uống máu ma cà rồng. Nghĩ đến người bà dũng cảm của mình, tôi phóng thẳng vào hắn, nắm chặt tai và cố đập đầu hắn vào cột granite. Nhưng hắn đã chộp được khuỷu tay tôi, và cố đẩy tôi ra khiến tay tôi lơi dần. Cuối cùng, hắn cũng thoát ra được, nhưng nhìn vào mắt hắn, tôi có thể thấy hắn vô cùng kinh ngạc và cảnh giác hơn. Tôi cố đá hắn vào đầu gối, nhưng hắn đã đoán trước được và vặn người ra xa để tránh. Trong lúc tôi đang mất đà, hắn liền đẩy mạnh, và tôi ngã xuống uỵch xuống nền đất cứng.

Rene ngồi đè lên người tôi. Nhưng sợi dây thừng đã rơi trong cuộc ẩu đả vừa rồi, và một tay giữ cổ tôi, tay còn lại hắn dò dẫm tìm thứ công cụ hắn đã lựa chọn. Tay phải tôi đã bị đè chặt, nhưng tay trái lại hoàn toàn tự do, và tôi hết đập lại cào hắn. Tên sát nhân phải cố chịu đựng để tìm cho ra sợi dây thừng siết cổ, vì đó là một phần nghi thức của hắn. Bàn tay quờ quạng của tôi vớ được một hình dạng quen thuộc.

Rene vẫn đang mặc bộ đồ lao động, con dao vẫn được dắt bên thắt lưng. Tôi mở chốt khóa, rồi rút con dao ra khỏi bao, và khi hắn vẫn còn đang nghĩ, “Đáng lẽ mình nên tháo nó ra,” thì tôi đã thọc con dao vào bụng hắn, ấn thật sâu. Rồi tôi rút ra.

Hắn thét lên.

Hắn lảo đảo, vặn vẹo phần thân trên, cố dùng hai tay ngăn dòng máu đang tuôn ra từ vết thương.

Tôi chạy lùi về sau, đứng lên, cố giữ cho khoảng cách giữa mình và con quái vật đó đủ xa.

Rene rống lên. “ôi Chúa ơi, con đàn bà thối tha! Mày đã làm gì thế này? Đau quá, Chúa ơi!”

Máu vẫn tuôn.

Hắn đang sợ hãi, sợ bị bại lộ, sợ rằng trò chơi của hắn sẽ kết thúc, sợ cuộc trả thù của hắn sẽ kết thúc. “Những ả đàn bà như mày đáng phải chết,” tên sát nhân gầm ghè. “Tao có thể cảm thấy mày đang ở trong đầu tao, đồ quái vật!”

“Ở đây ai mới là con quái vật cơ chứ?” tôi rít lên. “Đi chết đi, thằng khori.”

Tôi không biết mình đang nghĩ gì nữa. Tôi vẫn đứng khom mình cạnh tấm bia mộ, tay nắm chặt con dao đẫm máu, chờ hắn phản đòn.

Rene lảo đảo đi thành vòng tròn, trong lúc tôi quan sát với gương mặt đanh lại. Tôi khép tâm trí mình lại, tránh xa cảm giác của hắn về cái chết đang đến gần. Khi Rene đổ sụp xuống đất, tôi vẫn đang đứng lăm lăm con dao trong tay. Khi chắc chắn hắn không thể cử động nữa, tôi bèn tiến về phía nhà Bill, nhưng đi chứ không chạy. Tôi tự nhủ đó là vì mình không thể: nhưng tôi cũng không chắc. Tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh bà, bị đóng khung vĩnh viễn trong tâm trí Rene, đang đấu tranh vì sự sống của bà trong chính ngôi nhà của bà.

Tôi lục túi tìm chìa khóa nhà Bill, có chút ngạc nhiên khi thấy nó vẫn còn ở đó.

Bằng cách nào đó, tôi tra được chìa vào ổ, loạng choạng bước vào phòng khách rộng lớn, dò tìm điện thoại. Những ngón tay tôi chạm vào phím bấm, cố hình dung đâu là số chín, và đâu là số một. Tôi nhấn những phím bấm đủ mạnh để chúng kêu, và sau đó, đột ngột, tôi ngất lịm.

TÔI BIẾT mình đang ở trong bệnh viện: xung quanh tôi là mùi khăn trải giường sạch sẽ ở bệnh viện.

Điều tiếp theo mà tôi nhận ra là khắp người ê ẩm.

Và có ai đó đang ở trong phòng với tôi. Tôi cố mở mắt ra.

Andy Bellefleur. Khuôn mặt vuông vức của hắn ta còn có vẻ mệt mỏi hơn cả lần trước tôi gặp.

“Cô có nghe thấy tôi nói không?” hắn ta hỏi.

Tôi gật đầu, chỉ là một cử động khẽ khàng, nhưng vẫn khiến đầu tôi đau đớn vô cùng.

“Bọn tôi bắt được hắn rồi,” hắn ta nói, và hắn còn nói cả đống chuyện nữa, nhưng tôi đã lại thiếp đi.

Lần tiếp theo tôi tỉnh giấc, trời đã sáng, và lần này tôi có vẻ tỉnh táo hơn. Có ai đó đang ở trong phòng.

“Ai đó?” tôi nói, giọng ken két đau đớn.

Kevin đứng dậy từ chiếc ghế ở góc phòng, cuộn tròn tờ báo với phần giải ô chữ lại, nhét vào túi quần bộ đồng phục.

“Kenya đâu rồi?” tôi thì thầm.

Anh ta bất ngờ toét miệng cười. “Cô ấy ở đây vài tiếng rồi,” anh ta giải thích. “Cô ấy sẽ quay lại sớm thôi. Tôi đã buộc cô ấy phải đi ăn trưa.” Gương mặt mỏng và thân hình gầy guộc của anh ta tạo thành một đường thẳng khẳng khiu. “Cô thật cứng cỏi,” anh ta nói.

“Bây giờ thì chẳng cứng cỏi lắm đâu,” tôi cố gắng đáp lời.

“Cô bị thương mà,” anh ta nói, cứ như thể tôi không nhận ra điều đó vậy.

“Rene.”

“Chúng tôi tìm thấy hắn trong nghĩa trang,” Kevin trấn an tôi. “Cô đã đâm cho hắn một nhát ra trò đấy. Nhưng hắn vẫn tỉnh, và hắn nói với bọn này là hắn đã cố giết cô.”

“Tốt.”

“Hắn thật sự hối tiếc vì chưa hoàn thành được nhiệm vụ. Thật không tin nổi hắn lại bệnh hoạn đến thế, nhưng lúc bị bắt, hắn cảm thấy bị tổn thương và sợ hãi. Hắn cho rằng tất cả đều là lỗi của cô, vì cô không nằm chịu chết như những người khác. Hắn nói chắc là do gene di truyền, vì bà của cô...” Kevin dừng lại, sợ làm tôi buồn.

“Bà cũng chống trả lại,” tôi thì thầm. Đúng lúc đó Kenya bước vào, to lớn, bình thản, cầm theo một tách cà phê nghi ngút khói.

“Cô ấy tỉnh rồi,” Kevin nói, cười rạng rỡ với viên đồng sự.

“Tốt,” giọng Kenya có vẻ kém vui hơn Kevin với thông tin đó. “Cô ấy nói đã có chuyện gì vậy? Có lẽ ta nên gọi Andy.”

“Phải, anh ấy muốn vậy. Nhưng anh ấy mới chỉ ngủ được bốn tiếng thôi.”

“Anh ta đã bảo phải gọi.”

Kevin nhún vai, bước tới chiếc điện thoại đặt cạnh giường. Tôi lơ mơ ngủ giữa lúc anh ta nói, nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng anh ta rì rầm với Kenya trong khi chờ đợi. Anh ta đang nói về những con chó săn của mình. Kenya chắc hẳn đang lắng nghe. Andy bước vào, tôi có thể cảm nhận được suy nghĩ, cảm giác của hắn ta. Hắn ta đứng sừng sững cạnh giường. Tôi mở mắt ra khi hắn ta cúi xuống nhìn tôi. Chúng tôi nhìn nhau chăm chăm một lúc lâu.

Hai đôi giày quân phục hướng ra ngoài hành lang.

“Hắn vẫn còn sống,” Andy đột ngột nói. “Và hắn cứ nói không ngừng.”

Tôi thoáng cử động đầu, hy vọng ra dấu được mình muốn gật đầu.

“Hắn khai tất cả chuyện này bắt đầu từ em gái hắn, hồi ấy đang hẹn hò với ma cà rồng. Rõ ràng cô ta thiếu máu trầm trọng đến nỗi Rene cho rằng nếu hắn không ngăn cô ta lại thì chính cô ta cũng sẽ biến thành ma cà rồng. Một buổi tối, trong căn hộ của Cindy, hắn đã ra tối hậu thư cho cô ta. Cô ta phản đối, kiên quyết không từ bỏ người yêu. Lúc hai anh em bắt đầu tranh cãi thì Cindy đang xỏ tất vào chân để đi làm, Hắn đã giằng lấy, xiết cổ cô ta... rồi làm thêm chuyện khác nữa.”

Andy trông có vẻ buồn nôn.

“Tôi biết,” tôi thì thầm.

Andy nói tiếp, “Có vẻ như bằng một cách nào đó, Rene đã rút ra kết luận rằng hắn sẽ cảm thấy mình có lý do chính đáng để thực hiện hành vi khủng khiếp đó nếu hắn tự thuyết phục được bản thân rằng rằng bất kỳ ai ở trong hoàn cảnh giống như em hắn đều đáng phải chết. Thực ra, những vụ ám sát ở đây cũng tương tự như hai vụ cho đến giờ vẫn chưa phá được ở Shreveport, và chúng tôi đang hy vọng trong lúc huyên tha huyên thuyên, Rene sẽ đả động đến hai vụ đó. Nếu hắn là thủ phạm.”

Tôi mím chặt môi lại vì thương cảm cho số phận những người phụ nữ tội nghiệp khác.

“Cô có thể kể lại chuyện đã xảy ra với cô không?” Andy hỏi khẽ. “Cứ chậm rãi, từ từ, và chỉ thì thầm thôi nhé. Cổ họng cô bị sưng nặng lắm.” Tự tôi cũng biết chuyện đó, cảm ơn nhiều nhé. Tôi lẩm nhẩm kể về những sự kiện trong buổi tối đó, chẳng bỏ sót bất cứ chi tiết nào. Andy đã bật chiếc máy ghi âm nhỏ lên sau khi hỏi ý kiến tôi. Hắn ta đặt nó trên gối, ngay sát miệng tôi khi tôi ra dấu rằng ghi âm cũng được, để hắn ta biết toàn bộ câu chuyện.

“Ông Compton vẫn đi vắng?” hắn ta hỏi, sau khi tôi kết thúc câu chuyện. “New Orleans,” tôi thì thầm, gần như không nói nổi nên lời.

“Chúng tôi sẽ tìm khẩu súng trường trong nhà Rene, giờ khi đã biết đó là của cô rồi. Đó sẽ là một bằng chứng xác đáng.”

Sau đó, một phụ nữ trẻ xinh đẹp bận đồ trắng bước vào phòng, nhìn tôi rồi bảo Andy để lúc khác hãy quay lại. Hắn ta gật đầu với tôi, vỗ vỗ lên tay tôi một cách kỳ cục rồi đi ra. Trước khi ra đến cửa, Andy liếc lại nhìn cô bác sĩ với vẻ ngưỡng mộ. Cô ta chắc chắn đáng được ngưỡng mộ rồi, nhưng cô ta còn đeo nhẫn cưới nữa, vậy nên Andy lại một lần nữa chậm chân rồi.

Cô ta nghĩ Andy là người quá nghiêm túc và tàn nhẫn.

Tôi không muốn nghe chuyện này. Nhưng tôi vẫn chưa đủ khỏe khoắn để có thể tống khứ những suy nghĩ của họ ra khỏi đầu mình.

“Cô Stackhouse, cô cảm thấy thế nào?” vị bác sĩ trẻ hỏi hơi to. Cô ta có nước da ngăm đen và người eo ót, đôi mắt nâu mở to và khóe miệng rộng.

“Như chết rồi,” tôi thì thầm.

“Tôi có thể hiểu được,” cô ta đáp, gật gù quan sát tôi từ trên xuống dưới. Chẳng hiểu sao tôi không nghĩ là cô ta có thể hiểu được. Tôi dám cá rằng cô nàng chưa bao giờ bị một tên sát nhân hàng loạt đập cho tơi tả ở nghĩa địa.

“Cô cũng vừa mất bà phải không?” cô ta hỏi với giọng thương cảm. Tôi gật đầu, chỉ nhúc nhích cổ vài phân. “Chồng tôi mất sáu năm trước,” cô ta nói. “Tôi biết về nỗi đau khổ. Thật khó khăn khi phải tỏ ra dũng cảm, đúng không?”

Ôi, ôi, ôi. Tôi để vẻ mặt mình hỏi tiếp. “Anh ấy mắc bệnh ung thư,” cô ta giải thích. Tôi cố bày tỏ sự thương cảm mà không cần dịch chuyển tí cơ nào, nhưng gần như chẳng thể làm vậy được.

“Ừm,” cô ta nói, đứng thẳng dậy, trở lại với vẻ hoạt bát ban đầu, “chắc chắn cô sẽ sống, cô Stackhouse. Cô chỉ bị gãy xương vai, hai xương sườn và mũi thôi.”

Đức mẹ ơi! Thảo nào tôi đau đến thế.

“Mặt và cổ bị thâm tím nghiêm trọng. Tất nhiên là cổ họng cô cũng đau nữa.”

Tôi cố tưởng tượng xem mình trông như thế nào. May mà tôi không có chiếc gương cầm tay nào ở đây cả. “Và còn rất nhiều các vết sưng và vết xước không nghiêm trọng ở chân và tay nữa.” Cô ta mỉm cười. “Dạ dày vẫn ổn, và bàn chân cũng vậy!”

Hô hô hô. Vui quá cơ.

“Tôi đã kê thuốc giảm đau rồi, nên bất cứ khi nào cảm thấy đau đớn, chỉ cần nhấn chuông gọi y tá thôi.”

Một vị khách thò đầu vào trong phòng phía sau lưng cô bác sĩ. Cô ta quay lại, che mất tầm nhìn của tôi, và nói, “Xin chào?”

“Đây là phòng của Sookie phải không?”

“Phải, tôi vừa khám cho cô ấy xong. Anh có thể vào thăm được rồi.” Cô bác sĩ (theo bảng tên là Sonntag) nhìn tôi như muốn hỏi ý kiến, và tôi cố gắng thì thào, “Chắc chắn rồi.”

JB du Rone lướt đến cạnh giường tôi, trông điển trai như người mẫu trên bìa tiểu thuyết lãng mạn. Mái tóc vàng nâu sáng rỡ dưới ánh đèn, đôi mắt cùng màu, và chiếc áo không tay để lộ ra những cơ bắp cuồn cuộn, như được tạc đẽo bởi - vậy đấy, một cái đục. Anh ta cúi nhìn tôi, còn bác sĩ Sonntag nhìn anh ta thèm khát. “Em ổn chứ, Sookie?” anh ta hỏi.

Anh khẽ chạm ngón tay lên má tôi. Anh ta hôn lên chỗ trán không bị sưng.

“Cảm ơn anh,” tôi thì thầm. “Em sẽ ổn thôi. Đây là bác sĩ của em.”

JB hướng đôi mắt tròn xoe về phía bác sĩ Sonntag, người đang nôn nóng muốn được tự giới thiệu.

“Hồi tôi phải tiêm thuốc, bác sĩ không xinh đẹp đến nhường này,” JB nói chân thành và đơn giản.

“Anh chưa bao giờ đi khám bệnh kể từ khi còn bé ư?” bác sĩ Sonntag hỏi với vẻ bất ngờ.

“Tôi chẳng bao giờ bị ốm cả.” Anh ta cười rạng rỡ với cô bác sĩ. “Khỏe như bò mộng vậy.”

Và ngu cũng tương đương. Nhưng có lẽ trí thông minh của bác sĩ Sonntag đủ dùng cho cả hai.

Cô ta không nghĩ ra được lý do nào để nán lại, tuy nhiên trước khi ra khỏi phòng, cô nàng ném lại phía sau một ánh nhìn nuối tiếc.

JB cúi xuống, sốt sắng, “Anh mang chút gì cho em nhé, Sookie? Bánh quy Nabs hay thứ gì đó?”

Chỉ cần nghĩ về việc ăn bánh quy giòn cũng làm tôi ứa cả nước mắt. “Không, cảm ơn anh,” tôi thì thầm. “Chồng của cô bác sĩ ấy mất rồi.”

Ta có thể đổi chủ đề khi nói chuyện với JB mà chẳng sợ anh ta băn khoăn.

“Ôi chào,” anh ta thốt lên, bị ấn tượng. “Cô ấy thông minh và còn độc thân à.”

Tôi nháy mắt khích lệ.

“Em nghĩ anh nên mời cô ấy đi chơi sao?” JB trông trầm ngâm như thể anh ta cũng biết suy nghĩ vậy. “Đó có vẻ là một ý hay đấy.” Anh ta mỉm cười với tôi. “Trừ phi em sẽ đi chơi với anh, Sookie. Em luôn là số một trong anh. Chỉ cần em ngoắc tay một cái, anh sẽ đến bên em ngay tức thì.” Anh chàng này mới ngọt ngào làm sao. Tôi không tin vào sự tận tâm của anh ta, nhưng tôi tin anh ta biết cách làm phụ nữ dễ chịu, kể cả khi cô ta trông tệ hại kinh khủng như tôi bây giờ. Tôi cảm thấy khá đau đớn. Những viên thuốc giảm đau ở đâu nhỉ? Tôi cố cười với JB.

“Em đang đau,” anh ta nói. “Để anh gọi y tá nhé.”

Ôi, may quá. Tôi càng cố cử động tay thì cái nút nhỏ kia dường như càng lúc càng chạy ra xa.

Anh ta hôn tôi một lần nữa trước khi ra về và nói, “Anh đi tìm cô bác sĩ của em đây, Sookie. Có lẽ nên hỏi thăm chút về bệnh tình của em.”

Sau khi được y tá tiêm thuốc, tôi đang trông chờ cơn đau dịu đi thì cánh cửa mở ra một lần nữa.

Ông anh trai của tôi bước vào. Anh đứng cạnh giường một lúc lâu, nhìn chăm chăm vào mặt tôi. Cuối cùng anh cũng lên tiếng, một cách nặng nhọc, “Anh đã nói chuyện với bác sĩ của em ngay trước khi cô ấy đến căng tin cùng JB. Cô ấy bảo anh rằng tình trạng của em rất nghiêm trọng.” Anh lùi xa khỏi tôi, bước một vòng quanh phòng rồi quay lại. Lại nhìn chăm chăm. “Em trông tệ quá.”

“Cảm ơn anh,” tôi thì thầm.

“Ôi, phải rồi, cổ họng em. Anh quên mất.”

Anh bắt đầu vỗ về tôi, nghĩ rằng làm thế sẽ giúp tôi dễ chịu hơn.

“Nghe này, em gái, anh phải cảm ơn em, nhưng anh thấy xấu hổ vì khi có chuyện em lại là người bảo vệ anh.” Nếu có thể, tôi đã đá cho anh một cú rồi.

Bảo vệ anh, chết tiệt thật.

“Anh nợ em nhiều lắm, em gái à. Anh quá ngu khi nghĩ Rene là thằng bạn tốt.”

Phản bội. Anh ấy cảm thấy bị phản bội.

Đúng lúc đó, Arlene bước vào, khiến không khí dễ thở hơn hẳn.

Chị trông vô cùng luộm thuộm. Chị không trang điểm, mái tóc đỏ rối bù, và quần áo thì vớ được bộ nào mặc đại bộ ấy. Tôi chưa bao giờ thấy Arlene trong tình trạng chưa uốn tóc và thiếu lớp trang điểm dày tươi tắn.

Chị ấy cúi nhìn tôi - Chúa ơi, giá như tôi đứng dậy được - và trong một giây, khuôn mặt chị cứng như đá, nhưng khi đã thực sự nhận ra khuôn mặt tôi rồi, chị bắt đầu run lên bần bật.

“Chị đã tức điên lên với em, chị đã không tin nổi chuyện đó, nhưng giờ khi nhìn thấy em, và những gì hắn ta làm... Ôi, Sookie, em sẽ tha thứ cho chị chứ?”

Chúa ơi, tôi muốn chị ấy ra khỏi đây. Tôi cố ra dấu cho Jason, và ngay lập tức, anh hiểu, anh vòng tay quanh vai Arlene, đưa chị ra ngoài. Chưa ra đến cửa Arlene đã khóc òa lên. “Chị đâu có biết...” Chị nói, gần như không thành lời. “Chị đâu có biết!”

“Quái quỷ thật, anh cũng đâu có biết chứ,” Jason nói giọng nặng trình trịch.

Tôi chợp mắt một chút sau khi ăn ít thạch xanh ngon lành.

Chiều đó, tôi vô cùng phấn khích khi vào phòng tắm, một mình. Tôi ngồi trên ghế khoảng mười phút, và muốn quay lại giường. Tôi liếc mắt qua tấm gương giấu sau chiếc bàn gập, và ngay lập tức thấy hối hận.

Tôi bật điều hòa pha phả, chỉ đủ để thấy mát mẻ và cho da đỡ khô nẻ. Mặt tôi thâm tím hết cả, mũi sưng phồng ra gấp hai lần. Mắt phải thì sưng húp, gần như híp tịt lại. Tôi rùng mình, chỉ thế thôi cũng thấy đau. Chân tôi... Ôi, khỉ thật, tôi còn chẳng muốn kiểm tra nữa. Tôi cẩn thận nằm lại vào giường, thầm mong ngày hôm nay sớm kết thúc. Có thể khoảng bốn hôm nữa, tôi sẽ hoàn toàn khỏe mạnh trở lại. Làm việc!

Bao giờ tôi mới đi làm lại được đây? Một tiếng gõ cửa khe khẽ làm tôi xao lãng. Lại thêm một vị khách chết tiệt nữa đây. Ái chà, lần này là một người tôi không biết mặt. Một phụ nữ luống tuổi tóc xanh đeo kính gọng đỏ kéo một chiếc xe đẩy vào. Chị ta đang mặc chiếc áo vàng đồng phục của những tình nguyện viên bệnh viện, hay còn gọi là nhóm Những Quý Bà Ánh Dương.

Chiếc xe chở hoa dành cho bệnh nhân ở khoa này.

“Chị mang đến cho em những lời chúc tốt lành nhất!” người phụ nữ nói vui vẻ.

Tôi mỉm cười, nhưng mặt tôi hẳn trông phải khủng khiếp lắm, vì gò má người phụ nữ khẽ run run.

“Đây là dành cho em này,” chị ta nói, nâng lên một chậu cây buộc nơ đỏ. “Thiệp đây cưng. Xem nào, đây cũng là của em...” Đó là một bó hoa cắt trực tiếp từ vườn, gồm tầm xuân hồng, cẩm chướng hồng, xen lẫn baby trắng muốt. Chị ta cũng rút từ bó hoa ra một tấm thiệp. Kiểm tra kỹ chiếc xe, chị ta thốt lên, “Chà, em quả là người may mắn đấy! Thêm hoa cho em nữa này!”

Điều đáng chú ý ở món quà thứ ba này là một bông hoa đỏ kỳ dị mà tôi chưa thấy bao giờ, được cắm giữa những bông hoa quen thuộc khác. Tôi nhìn bông hoa cuối cùng này với Vẻ nghi ngờ. Chị Quý Bà Ánh Dương trao cho tôi một tấm thiệp từ cái kẹp nhựa.

Sau khi chị ta mỉm cười rời khỏi phòng, tôi mở mấy chiếc phòng bì nhỏ ra. Tôi nhận ra với chút châm biếm rằng khi tâm trạng tốt, mọi cử động đều có vẻ dễ dàng hơn.

Trong tấm thiệp ghi chậu hoa là của Sam và “tất cả đồng nghiệp ở quán Merlotte”, nhưng nét chữ là của Sam. Tôi chạm vào đám lá xanh mơn mởn, băn khoăn không biết mình sẽ để nó ở đâu khi mang về nhà. Bó hoa được cắt từ vườn là của Sid Matt Lancaster và Elva Deene Lancaster - tên gì mà chuối thế. Bó hoa cuối cùng, với bông hoa đỏ kỳ lạ (tôi rút ra kết luận rằng chẳng hiểu sao nó trông có vẻ rất tục tĩu, nhìn y hệt chỗ kín của phụ nữ vậy) chắc chắn là món quà thú vị nhất. Tôi tò mò mở tấm thiệp. Nó chỉ có duy nhất một chữ ký, “Eric”.

Tôi chỉ cần có thế mà thôi. Làm thế quái nào mà hắn biết tôi ở trong bệnh viện chứ? Sao đến tận giờ tôi vẫn chưa nhận được tin gì từ Bill?

Sau khi ăn chút thạch đỏ ngon lành cho bữa tối, tôi tập trung xem ti vi vài tiếng, vì ở đây chẳng có gì để đọc, kể cả khi mắt tôi có đọc được đi nữa. Những vết thâm tím càng lúc càng trở nên quyến rũ hơn, còn xương cốt thì rã rời, dẫu rằng tôi mới chỉ đi một lần vào phòng vệ sinh và hai lần đi quanh phòng. Tôi tắt ti vi và xoay người nằm nghiêng. Tôi ngủ thiếp đi, và sự đau đớn khắp cơ thể tôi thấm vào cả trong giấc mơ khiến tôi có những cơn ác mộng. Tôi mơ thấy mình đang chạy, chạy xuyên qua nghĩa trang, lo sợ cho mạng sống của mình, rồi ngã lên đá, rơi xuống một nấm mồ để mở, và bắt gặp tất cả những người tôi quen biết đang nằm ở đó: ba mẹ, bà tôi, Maudette Pickens, Dawn Green, kể cả một người bạn thưở ấu thơ bị chết trong một tai nạn lúc đi săn. Tôi đang tìm một tấm bia mộ nào đó; nếu tìm thấy, tôi có thể tự do trở về nhà. Tất cả họ sẽ quay trở lại mộ và để cho tôi yên. Tôi chạy từ tấm bia này sang tấm bia khác, đặt tay lên từng cái một, hy vọng nó đúng là tám bia mình đang tìm. Tôi rên rỉ.

“Cưng à, em an toàn rồi,” một giọng nói lạnh băng thân thuộc vang lên.

“Bill,” tôi thì thầm. Tôi quay lại, đối mặt với một tấm bia mình vẫn chưa chạm vào. Khi đặt tay lên đó, tôi dò được dòng chữ “William Thomas Compton”. Như bị dội một gáo nước lạnh, tôi mở bừng mắt, cố lấy hơi để hét toáng lên, nhưng họng tôi nhói đau. Tôi nghẹn lại vì hít quá nhiều không khí, và bừng tỉnh giấc vì cơn ho khiến cho mọi vết thương trên người tôi đau như xé. Một bàn tay đang vuốt ve má tôi, những ngón tay lành lạnh khiến làn da nóng bỏng của tôi dễ chịu hẳn. Tôi cố không khóc, nhưng một âm thanh khe khẽ vẫn bật ra khỏi cổ họng.

“Quay về phía ánh sáng đi, em yêu,” Bill nói, giọng nhẹ nhàng và bình thản.

Tôi đang nằm quay lưng về phía chiếc đèn trong phòng tắm đã được cô y tá bật sẵn. Giờ tôi ngoan ngoãn xoay người lại và nhìn thẳng vào chàng ma cà rồng của mình.

Bill rít lên.

“Anh sẽ giết hắn,” anh nói, với một sự chắc chắn giản dị làm tôi rợn cả sống lưng.

Sự căng thẳng tràn ngập căn phòng, làm tôi ngạt thở.

“Chào anh, Bill,” tôi làu nhàu. “Rất vui khi được gặp anh. Anh đi đâu lâu thế? Cảm ơn rất nhiều vì đã đáp lại những cuộc gọi của em.”

Anh đột ngột cứng người lại. Anh chớp chớp mắt. Tôi có thể cảm thấy anh đang cố gắng giữ bình tĩnh. “Sookie,” anh nói. “Anh không gọi vì muốn trực tiếp kể cho em nghe những chuyện đã diễn ra.” Tôi không thể đọc được vẻ mặt của anh. Nếu buộc phải nhận xét, tôi sẽ cho rằng anh có vẻ tự hào về bản thân mình. Anh dừng lại, quét mắt khắp những phần cơ thể có thể nhìn thấy được của tôi.

“Có đau đớn gì đâu,” tôi lẩm bẩm, chìa tay ra cho Bill. Anh hôn tay tôi, đôi môi nấn ná khiến người tôi hơi râm ran. Tin tôi đi, hơi râm ran lên thế này là đã vượt quá khả năng của tôi rồi đấy.

“Kể cho anh nghe hắn đã làm gì em,” anh yêu cầu.

“Anh cúi xuống đi để em có thể thì thầm. Nói nhiều đau lắm.”

Anh kéo một chiếc ghế lại gần giường, hạ thấp tay vịn xuống và tỳ cằm lên hai cánh tay đang khoanh lại. Khuôn mặt anh cách tôi có vài phân.

“Mũi em bị gãy rồi,” anh nhận xét.

Tôi đảo mắt. “Mừng là anh nhận ra điều đó,” tôi thì thầm. “Em sẽ kể với bác sĩ khi cô ấy đến.”

Anh nheo mắt lại. “Đừng cố lừa anh.”

“Được rồi. Mũi, hai xương sườn, và xương bả vai cũng đều gẫy cả.” Nhưng Bill muốn kiểm tra tôi một lượt, vậy nên anh kéo tấm chăn xuống. Sự xấu hổ của tôi lên đến cùng cực. Lẽ dĩ nhiên, tôi đang mặc một bộ quần áo bệnh nhân xấu xí kinh khủng, và tôi vẫn chưa tắm rửa sạch sẽ, khuôn mặt có đến tận mấy màu sắc khác nhau, tóc cũng chưa được chải.

“Anh muốn đưa em về nhà,” anh tuyên bố, sau khi đã lướt tay kiểm tra khắp lượt, xem xét từng vết trầy xước. Bác sĩ Ma cà rồng.

Tôi ra dấu cho anh cúi xuống. “Không,” tôi thì thầm. Tôi chỉ tay vào túi truyền dịch. Anh nhìn với vẻ nghi ngờ, nhưng tất nhiên anh biết nó là gì. “Anh có thể rút nó ra,” anh nói.

Tôi lắc đầu quầy quậy.

“Em không muốn anh chăm sóc em sao?”

Tôi thở dài mệt mỏi, cảm thấy đau đớn kinh khủng.

Tôi lấy tay ra dấu muốn viết, vậy là Bill lục lọi ngăn kéo lôi ra được một tập giấy. Kỳ quặc thay, anh mang theo bút. Tôi viết, “Họ sẽ để em ra viện vào ngày mai nếu em không còn sốt nữa.”

“Ai sẽ đưa em về?” anh hỏi. Anh đang đứng bên giường, nhìn tôi với ánh mắt phản đối, giống như một thầy giáo có người học trò giỏi nhất thường xuyên đi muộn.

“Em sẽ nhờ họ gọi Jason, hoặc Charlsie Tooten,” tôi viết. Nếu mọi chuyện khác đi, có lẽ tôi đã tự động viết tên Arlene rồi.

“Anh sẽ ở đó lúc trời tối,” anh nói.

Tôi ngước nhìn gương mặt xanh xao của anh, tròng trắng trong mắt anh gần như sáng long lanh trong căn phòng lờ mờ tối.

“Anh sẽ chữa cho em,” anh đề nghị. “Uống chút máu của anh nhé.”

Tôi nhớ lại mái tóc của mình đã nhạt màu đi như thế nào, nhớ lại mình gần như đã khỏe gấp đôi. Tôi lắc đầu.

“Sao lại không chứ?” anh hỏi, cứ như thể tôi đã từ chối cốc nước anh mời khi tôi đang khát vậy.

Tôi nắm tay anh, đưa nó lên miệng mình. Tôi dịu dàng hôn lòng bàn tay anh. Tôi áp bàn tay ấy vào bên má ít đau hơn.

“Mọi người nhận thấy em đang thay đổi,” tôi viết, sau một lúc. “Em cũng nhận thấy mình đang thay đổi.”

Anh cúi đầu một lúc, rồi nhìn tôi buồn bã.

“Anh biết chuyện gì xảy ra rồi chứ?” tôi viết.

“Bubba kể với anh một phần,” anh nói, gương mặt trở nên đáng sợ hẳn khi anh nhắc đến tay ma cà rồng ngu ngơ ấy. “Sam kể cho anh phần còn lại, rồi anh đến sở cảnh sát và đọc các bản tường trình.”

“Andy để anh làm vậy sao?” tôi nghuệch ngoạc viết.

“Chẳng ai biết anh ở đó cả,” anh nói với vẻ bất cần.

Tôi cố tưởng tượng chuyện này, và khẽ rùng mình.

Tôi nhìn anh bằng ánh mắt phản đối. “Kể cho em nghe chuyện xảy ra ở New Orleans đi,” tôi viết. Tôi lại cảm thấy buồn ngủ rồi.

“Em sẽ phải biết một chút về bọn anh đấy,” anh nói với vẻ trù trừ.

“Ôi, ôi, những bí mật thầm kín của ma cà rồng!” tôi lảm nhảm.

Đến lượt anh nhìn tôi bằng ánh mắt phản đối.

“Bọn anh cũng có tôn ti trật tự,” anh kể. “Anh đang cố tìm cách để chúng mình được an toàn trước Eric.” Bất giác, tôi quay nhìn bó hoa có bông hoa đỏ.

“Anh biết nếu mình là một quan chức, kiểu như Eric, hắn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nếu muốn can thiệp vào cuộc sống riêng của anh.” Tôi nhìn anh khích lệ, hay ít nhất là cũng cố tỏ ra như vậy.

“Nên anh tham dự một buổi họp ở địa phương, và dù trước đây chưa bao giờ dính líu đến các hoạt động chính trị của ma cà rồng, anh vẫn quyết định tranh cử một chức vụ. Và, với một số nỗ lực vận động hành lang có trọng điểm, anh đã thắng!” Chuyện này thật tuyệt vời. Bill là lãnh đạo ư? Tôi băn khoăn về nỗ lực vận động hành lang có trọng điểm đấy. Có phải Bill đã giết hết những kẻ đối đầu không? Hay anh mua chuộc mỗi cử tri bằng một chai máu A dương tính?

“Công việc của anh là gì?” tôi viết chậm rãi, hình dung ra cảnh Bill đang ngồi trong phòng họp. Tôi cố tỏ vẻ tự hào, một phản ứng có lẽ Bill đang trông chờ.

“Anh là điều tra viên của Khu vực Năm,” anh đáp. “Anh sẽ giải thích cụ thể với em khi em đã về nhà. Anh không muốn làm em kiệt sức đâu.” Tôi gật đầu, cười rạng rỡ với anh.

Tôi hy vọng anh không bất thình lình hỏi chủ nhân của đống hoa kia là ai. Tôi không biết liệu mình có phải viết thiệp cảm ơn Eric không. Chẳng hiểu sao đầu óc tôi cứ quay cuồng hết cả lên thế này. Chắc là do mấy viên thuốc giảm đau.

Tôi ra dấu cho Bill lại gần. Anh làm theo, khuôn mặt áp xuống giường ngay sát mặt tôi. “Đừng giết Rene,” tôi thì thầm.

Anh trông thật lạnh lùng, lạnh lùng hơn, lạnh lùng hơn bao giờ hết.

“Có lẽ em đã gần như làm xong việc đó rồi. Hắn đang được chăm sóc đặc biệt. Nhưng cho dù hắn còn sống, thì giết người thế cũng đủ rồi. Cứ để pháp luật xử lý. Em không muốn anh bị săn đuổi thêm chút nào nữa. Em muốn chúng ta được bình yên.” Tôi bắt đầu thấy khó nói chuyện. Tôi nắm tay anh bằng cả hai bàn tay, áp nó vào bên má ít sưng hơn. Đột nhiên, nỗi nhớ da diết mà tôi dành cho anh bao nhiêu ngày qua cuộn lên trong lồng ngực, và tôi chìa tay ra. Anh cẩn thận ngồi lên mép giường, ngả vào người tôi, rồi anh thận trọng, thận trọng hết sức luồn tay xuống dưới người tôi, kéo tôi vào lòng, nhích từng chút một, để tôi có thể báo cho anh biết nếu tôi bị đau.

“Anh sẽ không giết hắn,” cuối cùng Bill cũng thì thầm vào tai tôi.

“Cưng à,” tôi thì thầm, biết rằng đôi tai thính của anh có thể nghe rất rõ. “Em nhớ anh lắm.” Tôi nghe tiếng anh thở dài, và vòng tay anh xiết chặt hơn một chút. Tay anh bắt đầu nhẹ nhàng xoa lưng tôi. “Anh không hiểu em sẽ bình phục nhanh đến thế nào nếu không có sự giúp đỡ của anh,” anh nói.

“Ôi, em sẽ cố bình phục thật nhanh,” tôi thì thầm. “Em cá là em sẽ làm bác sĩ phải ngạc nhiên cho xem.”

Một chú chó Ê cốt lon ton chạy dọc hành lang, ghé mắt vào phòng qua cánh cửa để mở, sủa to, “Gâu”, rồi lại lon ton chạy đi. Bill ngạc nhiên liếc ra ngoài hành lang, ồ, phải rồi, tối nay trăng tròn mà - tôi có thể nhìn thấy ngoài cửa sổ. Tôi cũng có thể nhìn thấy một thứ khác nữa. Một gương mặt trắng bệch hiện ra từ bóng đêm, trôi lờ đờ giữa tôi và mặt trăng. Đó là một gương mặt điển trai, với mái tóc dài màu vàng. Ma cà rồng Eric đang toét miệng cười với tôi, rồi dần biến mất khỏi tầm nhìn.

Hắn đang bay.

“Chúng ta sẽ sớm trở lại bình thường thôi,” Bill nói, nhẹ nhàng đặt tôi nằm xuống để anh có thể tắt đèn trong phòng tắm. Trong bóng tối, anh tỏa sáng rực rỡ.

“Phải,” tôi thì thầm. “Phải rồi. Quay trở lại bình thường.”