ết cục ngoài dự đoán Tố Xuyên hành

Vương Nguyên Kính một thân một mình trong phòng châm hương.

Bất kể tiếng mưa bên ngoài ồn ào ực nào, tay ông từ đầu đến cuối đều ổn định, động tác còn cẩn thận tỉ mỉ hơn cả thiếu nữ khuê các soi gương vẽ lông mày, tiếng hít thở dài nhẹ xa, tuyệt đối không thổi bay lên một tơ một hào phấn hương nào.

Đây là dạy dỗ cơ bản của con cháu vọng tộc.

Xếp xong một lò huân hương, Vương Nguyên Kính đứng dậy rót cho mình chén trà, trong ngoài khu ốc xá này đều không có kẻ hầu hạ.

Ông thích thanh tĩnh, từ nhỏ đã thích, về sau càng thích, thậm chí ông cũng quên mất mình là rất thích thanh tĩnh hay là thanh tĩnh đã mang tới thân phận và vinh quang.

Là con cháu đầy hứa hẹn của một đại gia tộc, có thể một mình có được một viện lạc yên tĩnh u nhã, đại biểu cho tán thành và coi trọng của gia tộc đối với ngài — ngay từ nhỏ, mỗi lần nhũ mẫu than phiền về hoàn cảnh chật chội sẽ khích lệ ông như vậy.

Do đó sau khi bái vào Thái Sơ Quán, chỉ cần tình hình cho phép, Vương Nguyên Kính kiểu gì cũng sẽ lựa cho mình một chỗ yên tĩnh nhất để ở.

Vì thế, Vũ Nguyên Anh thích náo nhiệt hay cười nhạo ông như một ông cụ non…

Vương Nguyên Kính chợt thấy trên tay đau nhói, cúi nhìn, thì ra chén trà đã nứt, trên bàn tay trắng noãn rịn ra một vệt máu.

Ông lượm từng mảnh sứ vỡ bày ra bàn, đứng dậy đi vào phòng trong lấy bình kim sang dược.

Thật ra chút vết thương ngoài da như thế, với Vũ Nguyên Anh chỉ mút hai cái là xong, nhưng Vương Nguyên Kính không muốn, thân thể tóc da, nhận được của cha mẹ, nào có thể khinh thường. Nhưng cũng vì thé, rõ ràng tu vi của ông cao hơn sư đệ Cầu Nguyên Phong, song mỗi khi đao thật thương thật chém giết, thu hoạch sẽ không hơn Cầu Nguyên Phong.

Sư phụ Thương Hoàn Tử không chỉ một lần thở dài, lo lắng cho đứa đệ tử tốt tính của mình tương lai sẽ chịu thiệt thòi. Phải biết, phần lớn người trong giang hồ là liếm máu trên lưỡi đao, ngõ hẹp gặp nhau, kẻ mạnh mới có thể sống sót.

Nhưng dở khóc dở cười là, Vương Nguyên Kính hết lần này đến lần khác lại trở thành người sống sót sau cùng trong ba sư huynh đệ.

Tâm thần hoảng hốt từ phòng trong bước ra, Vương Nguyên Kính đột nhiên chấn động —

Một gã trai áo đen đẹp trai trẻ tuổi đang lẳng lặng ngồi ở chỗ ông vừa ngồi, mỉm cười nhìn ông.

Giáo chủ tân nhiệm Ma giáo, Mộ Thanh Yến!

Con ngươi Vương Nguyên Kính chợt co rút, theo phản xạ chụp lấy bảo kiếm trên tường.

Mộ Thanh Yến giơ tay trái, một chén trà không bay thẳng tới, Vương Nguyên Kính không thể không xoay người tránh.

“Vương Chưởng môn yên tâm chớ vội.” Mộ Thanh Yến mỉm cười, “Nếu ta muốn đánh lén, sẽ không cần ngồi yên đây đợi ngài. Thực không dám giấu, vãn bối có chút chuyện không hiểu muốn thỉnh giáo Vương Chưởng môn.”

Trong cuộc đối lập dai dẳng giữa Bắc Thần Lục phái và Ma giáo, cũng không phải lúc nào cũng như mắt con gà đen ngươi chết ta sống, thi thoảng cũng có lúc tâm bình khí hòa nói chuyện.

Vương Nguyên Kính dằn xuống bất an, hòa hòa khí khí: “Mộ Giáo chủ tuổi trẻ tài cao, Nguyên Kính không dám nhận hai chữ ‘thỉnh giáo’.”

Nhớ đến dưới mái hiên ngoài phòng còn có hai tên nghe lén, Mộ Thanh Yến không rảnh khách sáo với Vương Nguyên Kính, “Rất đơn giản, kẻ phía sau màn xúi giục Vương Chưởng môn kia là ai?”

— mùa hạ nước mưa dồi dào, trong Thái Sơ Quán rất nhiều cỏ cây bụi trúc, hạt mưa rào rào đánh xuống bụi cỏ và lá trúc cộng thêm tiếng ếch kêu trùng gọi, Vương Nguyên Kính khó tập trung tinh thần, vừa vặn che giấu được hơi thở của Thái Chiêu và Phàn Hưng Gia.

Vương Nguyên Kính như bị bụi nhang đối diện tạt tới, thoáng chốc không biết nên phản ứng thế nào: “… Nguyên Kính không rõ ý của Mộ Giáo chủ.”

“Không rõ? A, vậy ta nói dễ hiểu hơn chút.” Mộ Thanh Yến: “Người xúi giục Vương Chưởng môn tìm hiểu trận pháp đến Thường Gia Ổ Bảo là ai?”

Vương Nguyên Kính quay lại nhào đến phía bảo kiếm trên tường, thế đi hung mãnh, trong tích tắc không để ý đến cánh cửa mở toang phía sau.

Thái Chiêu đang trốn dưới mái hiên thấy vậy, không khỏi đã tin vào suy tính của Mộ Thanh Yến mấy phần, nhìn Phàn Hưng Gia bên cạnh chớp chớp mắt. Phàn Hưng Gia toát mồ hôi lạnh cả người, hắn là người lanh lợi, xem điệu bộ này là biết không đúng — nếu bị người vô căn cứ vu oan thì dẫu sao cũng chẳng thể có phản ứng như này.

Trong một chớp mắt ngắn ngủi tiểu sư huynh muội trao đổi ánh mắt, hai người trong phòng đã cheng cheng chảng chảng qua bảy tám chiêu.

Vương Nguyên Kính vẫn không thể gỡ xuống bảo kiếm, ngược lại bị một chưởng đánh trúng vai trái, lùi mấy bước mới đứng vững, nhưng địch thủ đối diện cũng không thừa cơ đánh chết mình.

Lồ ng ngực ông phập phồng mãnh liệt, cả giận nói: “Họ Mộ kia đến cùng muốn gì! Dù cho ta không phải là đối thủ của ngươi, nhưng cũng không sợ! Hôm nay dù ngươi có đánh chết ta dưới lòng bàn tay, cũng đừng hòng nhục nhã thanh danh Thái Sơ Quán của chúng ta!”

“Thật là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, được thôi, vậy nói rộng ra nhé.” Mộ Thanh Yến chắp tay đứng chính giữa, “Đêm Thường Gia Ổ Bảo bị tàn sát ta cũng có mặt. Kẻ ra tay đích thật là Thiên Cương Địa Sát doanh của Nhiếp Đề, nhưng dẫn đường cho bọn chúng thần không biết quỷ không hay lên tới ổ bảo lại là một kẻ khác hoàn toàn.”

“Mê Tung trận của Thường Gia Ổ Bảo cần bốn năm đổi mắt trận một lần, mỗi lần đổi vị trí mắt trận, đường đi trước đó đều bỏ hết. Nói cách khác, người dẫn đường đó nhất định phải phá Mê Tung trận của nhà họ Thường trong vòng bốn năm, nhưng từ khi Thái Bình Thù nữ hiệp qua đời ba năm trước, Thường đại hiệp hầu như không bước chân ra khỏi nhà, vẫn luôn tự cấp tự túc nước uống rau xanh từ trên núi, đến cùng, người dẫn đường đã phá Mê Tung trận thế nào.”

Vương Nguyên Kính lạnh lùng nói: “Không phải còn có ngươi sao? Ngươi dưỡng thương ở Thường Gia Ổ Bảo một năm, trận pháp gì cũng đã thăm dò hết.”

Mộ Thanh Yến cười cười, “Hơn một năm trước ta bị thương chạy thoát khỏi U Minh hoàng đạo cũng không tự âm thầm đi vào Thường Gia Ổ Bảo, mà đã để lại tin ở chỗ bí mật đã hẹn trước giữa cha và Thường đại hiệp, chờ Thường đại hiệp thấy tín hiệu tới đón ta lên núi. Lúc lên núi ta hôn mê bất tỉnh, do đó cơ bản không biết đến trận pháp Mê Tung Trận.”

Vương Nguyên Kính nói: “Thường đại hiệp đã chết, bây giờ gì cũng là ngươi nói thôi.”

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Ta rất rõ mình không phải là ‘kẻ dẫn đường’, trong lòng Vương Chưởng môn ngài cũng vô cùng rõ ràng, ở đây chỉ có hai chúng ta, ngài cũng đừng chống chế.”

Vương Nguyên Kính giận dữ: “Chống chế cái gì, ta chưa từng tới Thường Gia Ổ Bảo, sao có thể dẫn đường cho Ma giáo!”

“Không cần lên núi, ngài cũng có thể dẫn đường.” Mộ Thanh Yến lẳng lặng nói, “Bởi vì mặc dù từ sau khi Thái nữ hiệp chết trong ba năm qua Thường đại hiệp không bước chân ra khỏi nhà, nhưng hơn ba năm trước, cũng chính là trước khi Thái nữ hiệp qua đời mấy tháng, ông ấy có đưa một người ngoài vào ổ Bảo — chính là La Nguyên Dung!”

Vương Nguyên Kính chợt biến sắc, vẻ mặt cứng đờ trong nháy mắt.

“Hôm đó tại đại điển tế Bắc Thần Lão Tổ, La Nguyên Dung nói rất rõ, hơn ba năm trước bà ấy vì tung tích Vũ Nguyên Anh đã phát sinh tranh chấp với Cầu Nguyên Phong, bị đánh trọng thương, là Thường đại hiệp cứu bà. Nhưng giao tình giữa Thường Đại hiệp với Thái Sơ Quán bình thường, sẽ không trùng hợp vừa vặn đi ngang cứu La Nguyên Dung.”

Mộ Thanh Yến chăm chú nhìn vẻ mặt biến hóa của đối phương, “Hẳn là Vương chưởng môn đã đưa La Nguyên Dung bị thương đến dưới núi Vũ An nhỉ — việc này chỉ cần lát nữa hỏi thăm trong số đệ tử, là biết ban đầu ai đã đưa La Nguyên Dung bị thương đi.”

Sắc mặt Vương Nguyên Kính trắng bệch.

Mộ Thanh Yến nói tiếp: “Lạc Anh Cốc có một loại kỳ dược tên là Truy Tung hương. Chỉ cần người uống vào không vận công chống cự, trong hai canh giờ cơ thể sẽ phát ra mùi kì lạ, chó săn có thể tìm ra. Sau này Chiêu Chiêu kể với ta, Thái Sơ Quán mấy người mới là phe am hiểu phối dược luyện đan nhất trong sáu phái Bắc Thần, nếu Ninh phu nhân có thể ngẫu nhiên luyện được Truy Tung hương, thế thì hẳn Thái Sơ Quán cũng có thể.”

“Ông cho La Nguyên Dung bị thương uống một loại thuốc như Truy tung hương, sau đó giả vờ khổ sở đưa đến trong thành Vũ An, Thường Đại hiệp nhiệt tình thật thà, đã đưa La Nguyên Dung lên núi chữa thương — ta thậm chí còn nghi ngờ chuyện La Nguyên Dung và Cầu Nguyên Phong phát sinh tranh chấp cũng là do ông âm thầm khuyến khích!”

Vương Nguyên Kính cố giữ vẻ mặt bình tĩnh, gượng cười nói: “Lời nói của một bên, nói hươu nói vượn! Nếu hơn ba năm trước ta đã biết Mê Tung Trận của nhà họ Thường, cần gì phải đợi đến hơn ba năm sau mới đi tàn sát nhà họ Thường chứ!”

“Bởi vì trước ổ bảo có một con suối rất rộng lớn.” Mộ Thanh Yến từ tốn nói, “Truy Tung hương của Lạc Anh Cốc một khi qua con nước, chó săn sẽ không biết được, ta nghĩ mùi thuốc trên người La Nguyên Dung cũng thế.”

“Lần đó La Nguyên Dung bị thương trở về, các ngươi chỉ tìm được vị trí đại khái của Thường Gia Ổ Bảo là ở chỗ nào đó thượng du con suối kia. Vì một kích phải trúng, chó gà không tha, kẻ giật dây kia không dám hành động thiếu suy nghĩ, mà phái người giả làm tiều phu sơn khách, âm thầm tìm kiếm. Bỏ ra ba năm, người phía sau màn rốt cuộc mới thăm dò ra vị trí địa hình Thường Gia Ổ Bảo, sau đó dẫn tặc lên núi.”

Mộ Thanh Yến nhìn người đàn ông trung niên đối diện chằm chằm, “Ta nói không sai chứ, Vương chưởng môn.”

Vương Nguyên Kính đột nhiên cười ha hả, cười đến như không thở nổi: “Chết cười, ha ha, thật là trò cười thiên hạ! Ta giết Thường Hạo Sinh, ta đồ sát cả nhà họ Thường gia… Ha ha ha, ta và nhà họ Thường không oán không cừu, ngươi cứ thử ra ngoài nói xem, xem có mấy người sẽ tin vào câu chuyện ma quỷ của tên yêu nghiệt Ma giáo như ngươi!”

Phàn Hưng Gia ngoài cửa sổ nghiêng đầu, im ắng nói bốn chữ ‘lời này không sai’.

Thái Chiêu trở tay nhéo hắn một cái, cũng dùng khẩu hình năm chữ ‘Ngậm miệng, nghe tiếp đi’.

“Ông đúng là không có lý do để giết Thường đại hiệp.” Mộ Thanh Yến lắc đầu, “Chuyện này cũng không phải là ý của ông, mà là bị kẻ phía sau màn uy hiếp.”

Vương Nguyên Kính cười còn dữ dội hơn, như muốn gập cả người — đối với người cử chỉ xưa nay văn nhã như ông ta mà nói, là rất thất lễ, “Uy hiếp, ha ha ha ha ha, ta xuất thân danh môn chính phái, ngồi ngay đi thẳng, trên đời này có chuyện gì có thể uy hiếp được ta!”

“Đương nhiên là về Vũ Nguyên Anh.”

Tiếng cười dừng bặt, Vương Nguyên Kính như một con gà bị nắm cổ, vẻ hoảng sợ ngay tức thời nổi lên mặt ông ta, trước mắt cứ như lại xuất hiện tình cảnh thê thảm của Vũ Nguyên Anh tứ chi chặt đứt còn bị gọt mũi cắt lưỡi khoét mắt.

Ông ta lẩm bẩm: “Không không, ta không có đi núi Đỉnh Lô, hãm hại Đại sư huynh bị bắt không phải ta, là Cầu Nguyên Phong, là hắn…”

Mộ Thanh Yến nhàn nhã nói: “Ta không phải nói trận chiến núi Đỉnh Lô, mà là lần sau đó không lâu Lục phái tiến đánh U Minh hoàng đạo trở về.”

Bầu trời lóe một tia sét, đinh tai nhức óc xé trời, cơn mưa nhỏ thoáng chốc chuyển thành mưa to, rầm rầm hắt nước xuống.

Động tĩnh của Thái Chiêu và Phàn Hưng Gia càng khó có thể phát hiện.

Vương Nguyên Kính lảo đảo lùi lại mấy bước, cho đến lưng dựa vào tường, hốt hoảng nói: “Ngươi, ngươi ngươi, ngươi đừng hòng lừa gạt ta!”

Mộ Thanh Yến chắp tay tới gần hai bước, “Mê Tung Trận bốn năm đổi một lần, cả ba năm sau đó hầu như chẳng có người ngoài ra vào Thường Gia Ổ Bảo, kể cả người mua bán cũng phải qua buổi kiểm tra thực hư mới vào được. Ngoại lệ duy nhất, chính là La Nguyên Dung từng dưỡng thương trong Ổ Bảo nửa tháng trước đó.”

“Nhưng ta đã nghĩ tới nghĩ lui, dẫu thế nào cũng không hiểu, sao một Vương Chưởng môn không tranh quyền thế lại muốn hại nhà họ Thường. Mãi đến khi lời của cố nhân mới thức tỉnh ta — Vương chưởng môn, ông bị người khác nắm chuôi nhỉ.”

Vương Nguyên Kính dán lên tường nhẹ run, trên mặt không chút sinh khí.

Giọng Mộ Thanh Yến chậm dần, ân cần hiền lành nói: “Năm đó Doãn Đại hạ lệnh tinh nhuệ của Lục phái tiến đánh U Minh hoàng đạo, Thái Sơ Quán các người được xếp phía sau áp trận, không lâu sau, tất cả đều rời đi. Ông cũng bị lạc mất phương hưởng giữa khe núi có măng đá mọc như trời, điêu khắc bằng đá hình hung thú khắp nơi trên mặt đất, ông mơ mơ hồ hồ lạc vào một sơn động…”

Ngoài cửa sổ mưa gió gào thét, Vương Nguyên Kính như quay về cái đêm như bị bóng đè đấy.

Măng đá nặng nề đen đúa san sát che trời, vách đá từng phiến cản trở tầm mắt, còn có sơn động ở khắp mọi nơi, ở trước cửa mỗi sơn động đều là một bức thạch điêu dựng thẳng dữ tợn — như bản thân lạc vào địa ngục.

Ông ta kinh hoảng, sợ hãi, hoảng hốt chạy bừa một hồi.

“Vương Chưởng môn, mỗi bức hung thú điêu khắc bằng đá ở cửa, là bệ ngạn.” Giọng Mộ Thanh Yến vang lên, “Bát trảo Bệ Ngạn, lên trời xuống đất, không chỗ nào ẩn núp… Đúng vậy, ở đó là một nhà lao bên ngoài của Giáo ta, trong mỗi sơn động đều xây dựng song sắt và lao tù sắt, dùng để cầm tù kẻ ngoại địch đương chưa biết nên xử lý thế nào của Giáo ta.”

“Đêm đó vì ngăn cản thế công của Lục phái, đại đa số ngục tốt đều được Lộ Thành Nam điều đi, thiên lao Bát Trảo vừa lúc không ai canh giữ. Vương Chưởng môn, ông còn may mắn hơn Quách Tử Quy, ông ấy đi nhầm sơn động, bị Giáo chúng ở lại phòng thủ giam giữ, còn Vương Chưởng môn vẫn một đường thông suốt, không ai ngăn cản.”

“Trong sơn động đen như mực ông lảo đảo ngã nghiêng đi, hai bên đều là lao sắt, hoặc đang bỏ trống, hoặc phơi bày thi thể hư thối. Đi tới đi tới, ông tự dưng nghe được tiếng xích sắt va chạm cực mạnh. Ông vội bước tới trước cửa sắt có tiếng vang, xuyên qua song sắt rộng cỡ bàn tay, ông nhìn thấy một người quen thuộc, một người mà các người ngỡ như đã chết…”

“Ngươi đừng nói nữa! Đừng nói nữa!” Vương Nguyên Kính rống lên tê tâm liệt phế.

Phàn Hưng Gia ở ngoài cửa như đoán được gì, quay sang nhìn Thái Chiêu, trong mắt đầy sợ hãi và hoảng sợ.

Thái Chiêu trấn an vỗ vỗ vai hắn.

“Là Vũ Nguyên Anh.”

Mộ Thanh Yến thản nhiên nói, “Ta đã điều tra hồ sơ, Vũ Nguyên Anh vào thời điểm Nhiếp Đề nắm quyền chuyện trong Giáo hỗn loạn, bị lũ chuột nhắt sâu bọ rảnh rỗi đến nhàm chán tra tấn thành thứ không còn con người. Vào thời Nhiếp Hằng Thành, có lẽ ông ấy vẫn còn ổn.”

Lòng phòng bị của Vương Nguyên Kính thoáng chốc bị đánh tan, run rẩy ngồi phịch xuống, nỗi sợ hãi bị vạch trần bủa vây lấy ông ta.

“Nhìn thấy Đại sư huynh may mắn còn sống, Vương Chưởng môn rất vui mừng nhỉ, nhanh cứu người ra đi.” Ngữ điệu Mộ Thanh Yến chậm chạp hiền hòa, nhưng ác độc khắc sâu, “A, không đúng. Mấy tháng trước ở tế điển Bắc Thần Lão Tổ, mọi người nhìn thấy Vũ Nguyên Anh, là bị hành hạ mấy mươi năm, không còn hình người rồi.”

“Thiên lao Bát Trảo chỉ dùng xích xắc đen bình thường, bản thân Vũ Nguyên Anh bị trọng thương, huyệt đạo bị phong bế, không thể tự thoát khỏi vòng vây. Nhưng Vương Chưởng môn ngài cơ thể hoàn hảo, kiếm sắc nơi tay, tuyệt đối có thể cứu người ra mà nhỉ.”

“Vương chưởng môn, lúc ấy, sao ngài lại không cứu Vũ Nguyên Anh nhỉ?”

Mộ Thanh Yến chợt trầm mặt: “Là vì, ông muốn làm Chưởng môn Thái Sơ Quán.”

Vương Nguyên Kính co rúm ở góc tường, đau đớn đầy mặt.

Trong nhà lao sắt ở sơn động ẩm ướt âm u kia, đột nhiên ông nhìn thấy Vũ Nguyên Anh bị xích sắt khóa cả miệng, mới đầu là hết sức vui mừng. Nhưng sau một khắc, một ý nghĩ tà ác vẫn bám riết lấy ông ta, như ác ma rỉ rả bên tai —

“Rõ ràng là mi vào Thái Sơ Quán trước, lúc chính thức bái sư hắn lại thành Đại sư huynh.”

‘Mi bị hắn bức ép gần nửa đời, còn muốn tiếp tục bị bức ép à?’

‘Sư phụ chết rồi, sư thúc tàn phế, tư tịch lẫn tu vi của sư đệ Cầu Nguyên Phong đều không bằng mi, chỉ cần không có hắn, mi chắc chắn sẽ giữ chức Chưởng môn!’

‘Người không vì mình, trời tru đất diệt.’

‘Rốt cuộc mi có muốn làm rạng rỡ tổ tông, áo gấm về quê không, để cái đám tộc nhân khinh miệt kia của mi phải lau mắt mà nhìn mi!’

“Mi không cần phải làm gì cả, chỉ cần yên lặng đi ra là được…”

Theo từng bước một ông ta lùi lại, rời cánh cửa sắt, vẻ vui mừng trong mắt Vũ Nguyên Anh dần dần biến mất, chuyển thành thất vọng và phẫn nộ.

Vương Nguyên Kính nghĩ, Đại sư huynh nhất định sẽ hiểu.

Trong tiếng xích sắt va đập trong điên cuồng tuyệt vọng, ông ta không quay đầu trốn khỏi sơn động, vứt bỏ người Đại sư huynh đối đãi mình như anh em ruột, cũng vứt bỏ lương tri của mình, cuối cùng thuận lợi mò được đường ra.

Ngoài cửa sổ Phàn Hưng Gia bị đoạn chuyện xưa đáng sợ này choáng váng, tay chân cả người lạnh buốt, cứng đờ như gỗ khắc.

Thái Chiêu nghiêm mặt, thầm ra quyết định, dù Mộ Thanh Yến có hỏi ra người giật dây, cô cũng muốn làm thịt tên tiểu nhân bỉ ổi Vương Nguyên Kính này, thay trời hành đạo.

“Đáng tiếc thật…” Mộ Thanh Yến hết sức trào phúng, “Đến khi ông quay về Thái Sơ Quán, sư thúc và sư đệ của ông đã thông đồng với nhau. Thương Khung Tử vụng trộm truyền phân nửa công lực của mình cho Cầu Nguyên Phong. Đến cuộc tỉ tí tìm Chưởng môn sau đó, Cầu Nguyên Phong đánh ông như chó, cướp đi chức Chưởng môn từ tay ông. Ông chẳng những không thu được gì, còn bị người nắm đằng chuôi, thật là được không bù mất, ha ha, ha ha ha ha ha!”

Vương Nguyên Kính thất kinh giải thích: “Ta, ta không phải cố ý, ta chỉ là nhất thời hồ đồ…”

“Không cần giải thích với ta, ta không có chút nào hào hứng truy cứu nhân phẩm con cháu Bắc Thần mấy người.” Mộ Thanh Yến vung tay lên, “Thường đại hiệp có ân với ta, thù của nhà họ Thường ta không thể không báo! Kẻ ép buộc ông đã thông đồng với Nhiếp Đề nhiều năm, tất nhiên tự có thế lực, ông ở Thái Sơ Quán bị Cầu Nguyên Phong đề phòng kiêng kị mười mấy năm, hiển nhiên không phải là ông.”

“Giờ, ông nói ra người kia, ta đi làm thịt hắn báo thù cho cả nhà Thường thị, cũng bớt cho ông một kẻ nắm đằng chuôi của mình, chẳng phải là vẹn toàn đôi bên ư?”

Trên khuôn mặt trắng xanh của Vương Nguyên Kính lộ vẻ khao khát, “Thật, thật sao?!”

“Nói nhảm! Ta có tí ti quan hệ gì với Vũ Nguyên Anh sao, càng không rảnh nói lý với bè lũ xu nịnh Thái Sơ Quán các ngươi.” Mộ Thanh Yến vịn Vương Nguyên Kính từ từ đứng dậy, từng câu dụ dỗ, “Nói ra người kia, Vương Chưởng môn sẽ không sao…”

“Được được, người đó là… A!”

Vương Nguyên Kính chợt trợn mắt, khuôn mặt cứng đờ, khóe miệng chảy một tia máu.

Mộ Thanh Yến cúi đầu, một mũi kiếm sắc bén từ ngực Vương Nguyên Kính thọc tới — trường kiếm từ ngoài tường đâm vào, xuyên ngực Vương Nguyên Kính.

“Ngoài phòng có người!” Hắn đột nhiên hét lớn.