Địa cung ngàn năm. hạ

Hai người bước ra sảnh đá khổng lồ, lại lên đường.

Theo yếu quyết Thái Chiêu đề cập, mỗi lần bắt gặp một dấu bản đồ Bát Quái trên vách sắt, hai người bèn tự thay đổi phương vị theo, cứ thế đi tiếp hơn nửa canh giờ, dần dần ven đường đã hiếm gặp tử thi hài cốt, thậm chí đến cuối còn không thấy bất kì dấu vết con người đi qua nào.

“Xem ra đã hơn một trăm năm không ai đặt chân lên con đường này.” Mộ Thanh Yến duỗi hai ngón tay nhẹ miết một vòng trên tường sắt, lại ngẩng nhìn đỉnh tường trên đầu, “Những chỗ chúng ta đi qua bám bụi dày mỏng không đều, mạng nhện cũng có vết đứt đoạn rồi nối. Nhưng ở đây, bụi bặm mạng nhện còn y nguyên.”

Thái Chiêu đồng ý.

Mộ Thanh Yến thấy nét mặt cô gái nặng nề, nhỏ nhẹ trấn an: “Đừng lo, xem ra chúng ta đã đi đúng hướng.”

“Không phải là tôi lo đi nhầm hay đi đúng, tôi lo là lo đi nữa sẽ mò tới thi thể tiên tổ nhà tôi.” Thái Chiêu cười khổ, “Nếu tính sai đường thì thôi, còn nếu đúng, vị tiên tổ để lại ký hiệu nhà tôi ấy, còn có đường sống sao.”

— nhìn theo tình hình trước mắt, hai người thầm nhận định năm ấy chắc chắn tiên tổ Lạc Anh Cốc vì cơ duyên xảo hợp nào đó đã lọt vào toà địa cung này, dù rằng đã dò ra đường tắt địa cung, nhưng tình cảnh khó khăn, bất đắc dĩ mới khắc kí hiệu ám chỉ đường thoát trên tường.

Xét thấy hậu nhân Lạc Anh Cốc chưa từng nghe đến việc này, khả năng rất lớn là vị tiên tổ này đã chết ở địa cung.

Mộ Thanh Yến tiếp tục an ủi: “Chiêu Chiêu nghĩ thoáng một tí, không phải nàng vừa nói có lẽ Giáo chủ Mộ Đông Liệt trạch tâm nhân hậu thích làm việc thiện sao, nói không chừng ông ấy đã thả tiên tổ nhà nàng toàn vẹn đầu đuôi ra đấy.”

Thái Chiêu: “… Lúc huynh gạt người nói chuyện càng thành khẩn đó.”

Đang nói, phía trước bỗng xuất hiện một vách tường sắt chặn đường, hiển nhiên đã là cuối đường, trái phải đều có lối ngoặt.

Tình cảnh này lúc hai người họ tiến vào sảnh đá khổng lồ cũng gặp phải, hơn nữa đã đồng thời chia nhau trái phải đi một lượt, đều không thông, mà giờ họ đã có bản đồ chỉ dẫn.

“Không đúng, dựa theo bản khắc, phải là đi tiếp tới trước chứ nhỉ.” Thái Chiêu móc khăn lụa ra xem, ban nãy cô đã dùng cây châm lửa đốt thành than vẽ đè theo bản đồ.

Mộ Thanh Yến nhíu mày chăm chú nhìn bức tường hồi lâu, sau đó thận trọng tìm tòi trên đầu, bỗng thả lỏng sắc mặt, “Ở đây rồi.” Sau đó hắn duỗi cánh tay, không biết ở vị trí nào trên đỉnh đầu đ è xuống, rồi khom người ấn một chỗ ở phần ngang hông một cái.

Phía sau tường sắt truyền đến tiếng cơ quan khởi động quen thuộc, rào rạo xích sắt kéo lê, tường sắt trước mắt dời ra một khe cửa nho nhỏ, hai người đều trở nên kích động.

Đề phòng cơ quan, Thái Chiêu dùng xích bạc lay cánh cửa hồi lâu, hai người mới thận trọng bước vào cửa.

Bọn họ vốn tưởng sau cánh cửa là lối thoát rời khỏi địa cung, ai ngờ vừa bước một chân vào sau cánh cửa sắt, bốn phía mở rộng sáng sủa.

Dưới chân là đất bùn mềm mại, đỉnh đầu là vách thuỷ tinh sáng trưng, không biết đã thiết kế mặt kính tinh xảo thế nào đã chiết xạ được ánh mặt trời xuống dưới lòng đất, đồng thời không khí thông thoáng, còn có luồng gió nhẹ quét qua mặt, như đã ở ngoài bầu trời hoang dã.

“Đây… là một mảnh vườn rau ư?” Thái Chiêu ngạc nhiên nhìn hàng rào tinh xảo vây quanh bờ ruộng, ở giữa còn có vết tích thảm cây khô héo thành.

Mộ Thanh Yến nhếch mép, “Trồng rau thì phải thành từng luống chứ, đám cây này đan xen vào nhau tinh tế, chắc là vườn hoa rồi.”

Vòng qua mảnh vườn hoa rộng lớn, hai người đi qua năm ba căn đình thủy tạ nghỉ mát, giữa đám đình đài lầu các còn có một con suối nhỏ uốn lượn. Nước suối đã khô cạn, lộ ra đá suối ngũ sắc lấp lánh dưới đáy.

Thái Chiêu cúi người nhặt hai viên đá màu, trong lúc thưởng thức ngạc nhiên phát hiện trong tay đúng là những viên bảo thạch giá trị liên thành.

Bọn họ tìm thấy một vườn thú nhỏ ở phía Tây, ba bốn chiếc lồng khổng tước tinh tế mạ vàng, bảy tám chiếc lồng thỏ bạc điểm xuyết mã não và lồng chim khảm phỉ thúy kim sa, thậm chí còn có mười lồng gà vịt đan bằng ngọc trúc… Chỉ tiếc chim muông trân thú bên trong đều đã hóa thành xương trắng.

“Giờ tôi tin vào thời Giáo chủ Mộ Đông Liệt nhân lực vật lực Ma giáo các huynh giàu mạnh nhất rồi.” Thái Chiêu bị đám lồng làm choáng cả mắt, “Một vạn con thỏ cũng không đáng tiền bằng một chiếc lồng này đâu.”

Mộ Thanh Yến kinh ngạc không thôi, “Đình đài lầu các, suối nước núi giả, vườn hoa nuôi thú… ở đây cứ như là sân sau của một tòa dinh thự.”

Thái Chiêu mù mờ: “Ai mà sống trong lòng đất nhỉ.”

Hai người tiếp tục đi tới, một cung điện nhỏ nhắn trang nhã tinh xảo xuất hiện trước mắt.

Tường làm bằng bạch ngọc, mái lợp ngói vàng, rường cột chạm trổ… Dưới ánh sáng chiết xạ bởi vách thủy tinh trên đầu, hơn một trăm năm trôi qua không thể mài mòn tòa cung điện nhỏ thanh thoát tráng lệ này.

Vì vào cung điện từ cổng sau, hai người gặp tẩm điện đầu tiên.

Nếu nói phòng ngủ của Nhiếp Đề là giữa hoa lệ giàu sang ngập ngụa mùi xa hoa lãng phí, thì phòng ngủ nơi đây đầy rẫy châu ngọc lại toát ra vẻ thanh lệ cao sang, nhìn mà quên đi thế tục.

Trên chiếc giường hải thạch lớn tuyệt đẹp khảm kim văn tinh xảo đặt hai chiếc gối song song, dưới giường bày hai đôi giày đế lụa mềm một lớn một nhỏ.

Bàn phấn điêu khắc bằng san hô ngọc bích cũng xếp hai chiếc, gương bạc một cao một thấp đặt song song sáng đến có thể soi được, chỗ bàn phấn thấp rải rác mấy món trang sức phụ nữ đeo như trâm xuyến tai, còn chỗ bàn cao thì đặt mấy chiếc hộp bạch ngọc, mở ra xem, là ngọc bội long phượng và trâm ngọc phát quan các loại mà nam tử hay dùng.

Ngoài ra, từ chung trà đèn ngủ đặt ở bàn cạnh giường cho đến mấy món rửa mặt ở góc tắm rửa phía bên trong cũng đều sóng thành đôi.

Chỉ có một điểm quái lạ là, tại bốn vách tường phòng ngủ này, chỗ gần mặt đất đều khảm một vòng vàng lớn cỡ lòng bàn tay, bốn vòng vàng đều khắc hoa văn hoa lựu nở rất xinh đẹp.

“Là nơi ở của một cặp vợ chồng nhỉ?” Nét mặt Mộ Thanh Yến lộ vẻ nghi hoặc, “Nhưng trong sử sách không bảo Giáo chủ Mộ Đông Liệt đã lấy vợ? Nếu ông ấy đã lập gia, sao còn truyền ngôi vị Giáo chủ cho cháu trai chứ không phải con ruột mình?”

Về khoản này Thái Chiêu đặc biệt thông suốt: “Ai nói thành thân xong nhất định sẽ có nối dõi chứ. Nói huynh nghe này, vị đại phu đắt khách nhất trên trấn Lạc Anh ấy, không phải chuyên trị thương, cũng không phải bắt bệnh vặt chứng khó, mà là giúp mấy đôi vợ chồng trẻ khó khăn thai nghén đó!”

Mặt thanh niên tuấn tú nghệch ra hiếm thấy. Trong mắt hắn, không kết hôn cũng còn mang thai được mà, sao có cảnh vợ chồng còn phải cần tìm thầy hỏi thuốc sinh con chứ.

Hai người xem từng gian lại từng gian phòng, từ phòng ngủ đến phòng khách, từ phòng sách đến phòng đàn, càng thêm xác định chủ nhân cung điện này là một đôi vợ chồng. Nam chủ nhân sao thì không rõ, nhưng nữ chủ nhân đúng là một người thùy mị yếu ớt nhưng bên trong thật kiên cường.

Bà thích thi từ mưa bụi lất phất, thích trích ghi lại tâm đắc trồng hoa nuôi cỏ, lúc khảy đàn còn mang chỉ sáo đồi mồi ba ngón, khi thêu thùa có thể tách một búi tơ tằm chia làm chín, kiên nhẫn thêu núi sông đất trời.

Thái Chiêu đứng trước giá thêu cố phân biệt dáng vẻ bức thêu, cho dù lụa là trăm năm không mục, nhưng sắc màu đã xám đen. Đổi lại Mộ Thanh Yến chỉ ngó qua đã khẳng định: “Là hai cây La Hán tùng cổ nghiêng ngả.”

Thái Chiêu cũng đã nhìn ra: “Cái gì mà La Hán tùng cổ nghiêng ngả chứ, đây là tùng Nghênh khách! Là một biến chủng của La Hán tùng. Sau này tôi dẫn huynh đi Trường Xuân tự mà xem, ở đó có cây tùng Nghênh khách lớn nhất thiên hạ đấy!”

Ngay sau đó cô lại đần mặt, “Lẽ nào vị phu nhân này là người của Trường Xuân tự? Nhưng Trường Xuân tự cũng đâu có nhận ni cô.”

Mi tâm Mộ Thanh Yến nhăn lại, như nghĩ ngợi gì.

Hai người xem xét trọn tòa cung điện, mới phát hiện một căn phòng bí mật cạnh thư phòng.

Nói là bí mật, thật ra chỉ là dùng giá sách và rèm châu che hờ.

Bên trong bày một điện thờ cao lớn, mùi khói đốt mơ hồ vẫn còn vương vấn. Thờ phụng trên bàn thờ không phải Tổ sư của Đạo gia cũng không phải Thần Ma thiên địa, mà là một bức tượng tiên đạo đã lớn tuổi bằng ngọc cao hơn một thước.

Bức tượng ngọc đầy tiên phong đạo cốt, phất trần khẽ phẩy, dáng vẻ vô cùng quen mắt, hai người Mộ Thái vừa mới gặp qua.

Thái Chiêu khẽ giật mình: “Thì ra vợ chồng họ thờ cúng Bắc Thần Lão Tổ.”

Lúc này, Mộ Thanh Yến bỗng nhiên vươn tay đến pho tượng Bắc Thần Lão Tổ, Thái Chiêu bị giật mình, rối rít kéo hắn lại, “Đừng đừng đừng, bên ngoài có đủ vàng bạc châu báu, đều rất đáng tiền, chúng ta không thể khinh nhờn anh linh của Lão Tổ.”

Mộ Thanh Yến buồn cười nói: “Nàng nhìn xem bên dưới tượng Lão Tổ là cái gì đây?”

Thái Chiêu nhìn lại, mới phát hiện bức tượng ngọc đang đè hai tờ ngọc tiên mong mỏng. Vì tượng ngọc màu trắng, ngọc tiên cũng màu trắng, nếu không phải cặp mắt Mộ Thanh Yến rất tinh, người bình thường sẽ không phát hiện được.

(*) giấy viết thư.

Mộ Thanh Yến cẩn thận nâng tượng ngọc rút ngọc tiên, Thái Chiêu ở bên cạnh cũng rất hưng phấn, được trịnh trọng đặt dưới bức tượng Lão Tổ thế này, xem như không phải bảo đồ kho tàng thì hẳn cũng là bí tịch võ công tuyệt thế gì rồi.

Ai ngờ Mộ Thanh Yến lật ra xem, sau đó ồ lên, “Thì ra là một tờ hôn thú.”

“Hôn thú?” Thái Chiêu sửng sốt.

Mộ Thanh Yến mở giấy kết hôn ra đặt trên bàn, hai người cùng nhìn, trên ấy khắc—

‘Hôm nay ngày vui lập lễ, lương duyên đã định, thơ vịnh Quan sư, nhã ca Lân Chỉ. Tình đôn kiêm điệp, bạch thủ đồng tâm, chí này không đổi. Cẩn đặt này hẹn, thề lẫn nhau vĩnh viễn không tướng phụ’.

(*) đại ý sến như là ngày cưới kính thơ kính nhạc bla bla tình như chim liền cánh cá gặp nước, đồng lòng cùng nhau bạc tóc bạc đến cuối đời, kính cẩn thề hẹn vĩnh viễn không phụ nhau.

Bên dưới là tên của cặp vợ chồng mới cưới, ở trước là ba chữ ‘Mộ Đông Liệt’ cứng cáp sắc sảo lực thấu giấy tiên, bên cạnh là bút pháp của nữ tử xinh đẹp tao nhã, viết lên thư người nữ là ‘La Thi Vân’.

Mộ Thanh Yến lẩm bẩm: “Giáo chủ Mộ Đông Liệt thành hôn thật rồi, không biết La phu nhân này có lai lịch ra sao…” Lời còn chưa dứt, hắn nhìn thấy sắc mặt cô gái nhỏ bên cạnh đầy quái dị nom tinh thần không ổn.

“Sao thế.” Hắn nheo mắt dài, “Nàng, nàng biết La Thi Vân là ai sao? Nàng nghe ở đâu à.”

Thái Chiêu cứng họng, “Tôi tôi, tôi ta chưa từng nghe qua người này, người này… nhưng có lẽ tôi biết bà ấy là ai.”

Cô nói lộn xộn lắp bắp, nhưng lòng Mộ Thanh Yến chợt lóe, “Tổ sư Lạc Anh Cốc ban đầu họ Ngưu, sau đó họ Cố, tiếp đến là họ La. Bà ấy, là người Lạc Anh Cốc các nàng?”

Thái Chiêu bồn chồn mãi, mới chầm chậm gật đầu, “Có lẽ vậy. Nhưng mà chuyện này kể ra rất dài, hay chúng ta ra ngoài rồi nói?”

Nghe người Mộ Đông Liệt cưới là nữ tử Lạc Anh Cốc, lòng Mộ Thanh Yến đầy vui vẻ.

Hắn tủm tỉm kéo cô gái ngồi xuống, “Giáo chủ Ma giáo cưới tiên tổ nhà nàng, nàng thật sự định ra ngoài kể lại sao? Vẫn nên nói ở đây đi, lại lại lại đây, từ từ kể, không cần vội.”

Thái Chiêu thở dài: “Thật ra cũng chẳng có gì để kể cả.”

Cũng như mọi môn phái có niên đại rất dài khác, Lạc Anh Cốc có gia phổ ghi chép lại chiến công chuyện nổi tiếng của tiên tổ các đời, nhưng mà có chỗ kỹ càng có nơi thì sơ sài, nơi ghi cẩn thận chi tiết chỗ thì hàm hồ lược bớt, cao thượng mà nói là để tránh cho vãn bối vô tri bắt chước hành vi nghiệt chướng, tri kỷ mà nói thì là chuyện xấu trong nhà không thể truyền ra ngoài.

Tỉ như, ‘Ma nữ’ như Cố Thanh Không.

Hai trăm năm qua, con cháu Lạc Anh Cốc đùm đề, người được viết vào tổ phổ không hai trăm cũng đến một trăm rưỡi, dĩ nhiên Thái Chiêu không thể nào nhớ từng người một, huống hồ xông xáo trên giang hồ phần lớn là nam tử.

Mà giữa một đám Tiên tổ tùm lum tá lả ấy, vẫn có mấy nữ tử đặc biệt bắt mắt, ngoài Thái Bình Thù hào dũng cái thế, người nổi tiếng bên ngoài thứ hai chính là ‘La Thi Kiều’.

“La Thi Kiều ấy có công trạng gì?” Mộ Thanh Yến nhíu mày.

Thái Chiêu thở dài: “Nghe nói là một cô nương lan tâm huệ chất đoan trang hiền thục nhất Lạc Anh Cốc bọn tôi, cũng là cô nương được gả đi tốt nhất — mẹ tôi luôn lấy bà ra sỉ nhục tôi.”

Rất khéo, La Thi Kiều cũng lớn lên cùng Thiếu Trang chủ vốn đã định ra hôn ước ở Bội Quỳnh Sơn trang. Nhưng, so với Thái Bình Thù liên tục gặp khó từng bước chân trong nhà, La Thi Kiều quả là như cá gặp nước.

Chu phu nhân mẹ chồng tương lai của bà thật sự xem bà như con gái ruột mà đối đãi, sau mấy năm tay nắm tay dạy bảo con dâu tương lai thì qua đời, vì thế sau khi La Thi Kiều vào cửa hoàn toàn không gặp tranh chấp mẹ chồng nàng dâu của mấy câu chuyện thế tục.

Đến khi vợ chồng Lão Cốc chủ Lạc Anh Cốc qua đời, đứa con trai độc nhất tuổi còn nhỏ, thế là La Thi Kiều phải thay người em trai còn bé coi ngó một nửa gia đình trước.

Bởi mẹ mất sớm, cô em chồng từ bé đã quyến luyến La Thi Kiều còn hơn mẹ.

Sau cô em chồng này được gả đi Quảng Thiên Môn.

Theo ghi chép trên tổ phổ, đâu đấy chừng mười mấy năm, sáu phái Bắc Thần có ba được nắm giữ trong tay La Thi Kiều —

Đầu tiên là vị hôn phu thanh mai trúc mã với La Thi Kiều, nổi tiếng trong giang hồ là Ba Nhĩ Đóa*, vợ nói gì nghe nấy.

(*) chỉ người đàn ông sợ vợ: hình ảnh chồng bị vợ xách tai. =]]

Tiếp theo là Thiếu Cốc chủ Lạc Anh Cốc còn đang thay răng, chị cả như mẹ, La Thi Kiều nói gì cũng không hai lời.

Cuối cùng là Môn Chủ Quảng Thiên Môn tuổi nhỏ kế vị, dù có võ nghệ cao cường nhưng tính tình ôn hòa không có chủ kiến, đôi khi bị gia trưởng trong nhà khinh thường chèn ép, co ro một mình khó chịu trong phòng bị vợ nhìn thấy, vợ khóc sướt mướt gửi một phong thư về nhà ngoại, chị dâu cả La Thi Kiều bèn khí thế hung hăng giết đến tận cửa hưng sư vấn tội.

Bấy giờ Tông chủ chấp chưởng trấn Thanh Khuyết từng nói đùa, mười mấy năm đó mỗi lần mở đại hội sáu phái, La Thi Kiều hầu như có thể một mình định đoạt, ông ấy ngồi chức Tông chủ chỉ cần đơn thuần thu xếp.

Quãng lịch sử này nói ra có phần làm cho một đám nam tử hán tự khoe là đại trượng phu không thoải mái, nhưng hết lần này tới lần khác La Thi Kiều xử sự công chính, thưởng phạt nghiêm minh, nói chuyện làm việc đều đáng thán một chữ phục.

Mặc dù bà mắng hết đám nam nhi họ Tống ngoại trừ em rể thành chó, còn đánh hết phe này tới phe khác khoa tay múa chân ở Quảng Thiên Môn, nhưng thật sự đã trừ đi những vết nứt nghiêm trọng mà đời trước nhà họ Tống để lại, tránh hoạ sắp phát sinh từ trong nhà.

Bà tuy trắng trợn cách tân tệ nạn ở Lạc Anh Cốc, đắc tội không biết bao nhiêu bô lão nhà họ La, nhưng sau mười mấy năm bà đích thực đã giao cho em nhỏ một phần gia nghiệp thịnh vượng ngăn nắp rõ ràng.

Dù bà hút hết cả thịt chồng, nhưng bản thân Chu trang chủ vui vẻ chịu đựng, từ trên xuống dưới nhà họ Chu ngoan ngoãn, Bội Quỳnh Sơn trang gần hai mươi năm hiển hách thiên hạ, trên giang hồ không dám không theo.

— La Thi Kiều trong các bản ghi chép tổ phổ các nhà đều là một sự tồn tại kì diệu, bọn họ vừa muốn tán dương người kỳ nữ này, lại vừa khen rất không được tự nhiên, không cam lòng không muốn các loại.

Mộ Thanh Yến nghe xong cười nói: “Phải chăng cha con họ Doãn là chịu dắt lối bởi La phu nhân này, định vẽ một bầu hô lô y đúc, đáng tiếc chưa xuất sư đã gãy nửa, ô hô.”

“Mẹ tôi cũng nói y thế!” Thái Chiêu cũng cười.

Mộ Thanh Yến: “Bà ấy tên là La Thi Kiều, có khi nào bà có một người chị em tên La Thi Vân chăng?”

“Tôi không biết.” Thái Chiêu thở dài, “Tôi chỉ biết là em trai La phu nhân là La Thi An, hoàn toàn không thấy ghi chép phải chăng chị em bọn họ còn có người chị em gái nào khác.”

Ánh mắt cô ảm đạm, “Trong ghi chép mấy đời sau đó, rõ ràng viết ‘sau bốn mươi năm Cố Thanh Không đại loạn mất tích, Lạc Anh Cốc bất hạnh, nghiệt nữ tái xuất’.”

Mộ Thanh Yến bật thốt, “Cố Thanh Không mất tích là chuyện cách đây một trăm sáu mươi năm trước, sau bốn mươi năm, vừa vặn là một trăm hai mươi năm trước, cũng chính là thời điểm Giáo chủ Mộ Đông Liệt vứt bỏ ngôi vị lui ẩn. Cho nên, cho nên…”

“Cho nên e là vị này chính là một Ma nữ khác của Lạc Anh Cốc.” Thái Chiêu nhìn tờ ngọc tiên hôn thú liên tục thở dài, “Tiền bối Cố Thanh Không chỉ không tốt nết, thích đối đầu với đám Lục phái, hay đánh trưởng bối thôi. Người này ngược lại thì hay rồi, lấy luôn Giáo chủ Ma giáo, không biết cha mẹ đã mất sớm của bà có bị bà tức chết không nữa.”

Mộ Thanh Yến nheo mắt, vội nói: “Chớ nói nhảm, phàm là có tu vi nhất định thì nào đơn giản tức chết vậy.” Hắn đổi chủ đề, “Chúng ta tìm kiếm thêm ở điện thờ này, nếu không có thứ kỳ dị thì chúng ta tiếp tục tìm đường ra ngoài thôi.”

Thái Chiêu lườm hắn, không nói một lời lật kiểm tra tiếp điện thờ, vì một ngọn lửa vô danh đang nhen nhúm, cô khua tay làm đổ một chiếc hộp bạch ngọc. Nắp hộp văng mở, một món đồ sắc vàng đầy chói lọi rơi vãi ra.

Hai người đi nhìn, là một sợi xích vàng nhỏ dài cuộn thành một cuộn, một đầu là khóa chụp, đầu kia là một vòng lớn tròn trịa.

“Gì thế nhỉ, cũng không giống móc treo cổ…” Thái Chiêu đang cười, bỗng liếc thấy hoa văn quen thuộc trên xích vàng, chợt biến sắc.

Mộ Thanh Yến tâm tư nhạy bén, đã kịp phản ứng, nhưng chưa kịp há miệng, Thái Chiêu đã giận tím mặt.

“Đồ khốn! Họ Mộ các người đều là quân lộn kiếp!” Cô thúc hộp bạch ngọc vào người Mộ Thanh Yến, đồng thời dựng chưởng làm đao, nghiêm túc bổ khí kình về phía hắn.
Chị Quan: không sai, công dụng xích vàng chính là như mọi người đoán. 

Minh: xích vô tường phòng ngủ để làm gì, ai đoán được đâu bà.