ần này đi ngàn dặm.

Không biết là lo ngại cỡ nào mà từ sau khi Nhiếp Hằng Thành cầm quyền thậm chí kế nhiệm ngôi vị Giáo chủ, chưa từng vào ở điện Pháp Thiên, cũng không đâu đó gần điện Vô Ngung, mà là điện Huyền Tẫn lớn nhất trong cung Cực Lạc. Trái lại đứa cháu trai quyền hành bất ổn Nhiếp Đề kia, lại quay về ở ngay giữa điện Pháp Thiên.

Hôm nay một nửa trước điện Huyền Tẫn bị Liên Thập Tam trong lúc phát động tấn công đập đánh tơi bời, một nửa còn lại bị Hàn Nhất Túc cho nổ tung, điện Pháp Thiên thì bị Nhiếp Đề bố trí như cái động tiêu hồn, đều không thể ở.

Mộ Thanh Yến chậm bước như u hồn trong điện Vô Ngung, thị vệ dọc đường nhìn thấy hắn cuống quýt ôm quyền lễ chào, tỳ nữ nhìn thấy vị chủ nhân mới lạnh lùng mà còn đẹp trai cao lớn uy nghiêm vậy, đều đỏ mặt né qua một bên, cẩn thận nheo mắt dõi theo bóng chàng biến mất sau cửa hậu điện thiên viện.

Đây là nơi ông cố của Mộ Thanh Yến sống quãng đời còn lại.

Tìm đến tận nguồn cội rễ, loạn Nhiếp thị kéo dài ba đời nhà họ Mộ bắt đầu từ lúc ông cố đã già hành động không còn phù hợp — đối mặt với thằng con độc nhất chỉ biết tự do tùy hứng, cụ không thể xuống tay dạy dỗ nghiêm khắc nổi; đối mặt với hai người con nuôi dã tâm bừng bừng, cụ lại không có sức lực mà ràng buộc.

Nhưng mấy ai biết, thuở thiếu thời ông cố cũng là người ngồi xuống đứng lên sáng ngời ngời, nhưng lòng quả quyết và hiếu thắng của cụ đã theo cái chết của vợ yêu bặt vô âm tín.

Chỗ ở được bố trí thanh u mộc mạc, chỉ có một khúc san hô Tử Tinh dài hơn một thước bày dưới điện thờ cao cao, qua mấy chục năm vẫn tươi tắn nồng nàn, tỏa ánh sáng rực— đây là vật mà bà cố của Mộ Thanh Yến yêu mến nhất.

Bà là y lệnh của đấng sinh thành gả vào Mộ thị, vì thế, ông cố Mộ Thanh Yến không thể không cách biệt với cô gái mình yêu dấu, sau khi cưới khó tránh khỏi lạnh nhạt giận cá chém thớt với bà. Với bản tính hoà nhã bà không buồn không oán, chỉ lặng lẽ dùng dịu dàng mà đối đãi.

Lúc còn trẻ, người ta luôn tự cho là sẽ có cả đời để tha thứ và sống chung thật tốt, không biết rằng năm tháng như chớp lóe. Đến lúc vợ mình đã bệnh nguy kịch, ông cố của Mộ Thanh Yến mới biết mình đã bỏ lỡ thứ gì, từ đó áy náy và đau xót che lấp nửa đời còn lại.

Mộ Thanh Yến đứng trước khúc san hô suy nghĩ, thật sự nên để cái lão Nghiêm Hủ bất tử đến xem, ông cố đã y theo lệnh nghiêm của cha mẹ sư trưởng cưới vợ, không phải kết cục thê thảm bàng hoàng thế sao.

Hắn lắc đầu.

Xuyên qua mảnh sân nhỏ vắng vẻ của ông cố, Mộ Thanh Yến đi vào một ngôi nhà hoa mỹ cao ráo rộng rãi.

Dầu ông nội yếu ớt hay bệnh, song tính tình lại còn cáu kỉnh dễ giận. Ông thích thuần phục ngựa chiến khó nhất, thích nuôi diều hâu kiệt ngạo quật cường nhất, đắm chìm trong điển tịch thượng cổ ở mắc mớ trắc trở, buông thả tiêu khiển cùng thơ rượu múa hát.

Nhiếp Hằng Thành quá rõ thẩm mỹ và sở thích của người anh em nuôi này, hầu như chỉ cần ướm người may áo sắp xếp một cuộc gặp gỡ tình cờ ‘ngoài ý định’ — cái lạnh mùa xuân chưa dứt, hoa bay đầy trời, một mỹ nhân tuyệt thế đa tài cao ngạo, hai người tranh giành đối chọi nhưng lại thấu hiểu lẫn nhau.

Lúc tình còn nồng, cả hai đều nhìn đối phương không thấy đủ. Vợ chỉ thấy chồng dịu dàng săn sóc, lại không phát hiện hắn đa tình, chồng thì biết vợ có chỗ cao ngạo, lại không biết chôn sâu trong xương bà là cố chấp đến hủy diệt.

Mộ Thanh Yến đứng một góc trong phòng ngủ của bà nội, đã qua mấy chục năm, vẫn nhìn ra được bố trí trong căn phòng rất mềm mại ấm áp, mọi góc cạnh đều được bao bọc bởi một lớp tơ bông rất dầy, những món đồ chơi nhỏ dễ nuốt cũng thắt sợi tơ, trên xà nhà còn đóng mấy móc đồng để treo nôi…

Ông cố Mộ Thanh Yến là người từng trải, ông nhìn ra chỗ thiếu hụt trong tính nết giữa con trai và con dâu, thầm lo cho tương lai.

Cho đến khi tâm phúc nhiều năm xung quanh cũng tức giận bỏ đi cả, ông nằm trên giường bệnh, lo lắng nhìn đứa cháu còn trong tã lót, bảo con trai con dâu ‘Dù ta có muôn vàn chỗ không phải, thì cũng đã bảo vệ bây đến lúc lấy vợ sinh con, tụi bây đã làm cha làm mẹ, tương lai dù có trúc trắc kiểu gì, thì ít nhất cũng đừng để trẻ con rơi vào thế không có chỗ trợ giúp’.

Một câu thành sấm.

Lúc cha mẹ lần lượt qua đời, Mộ Chính Minh còn chưa đủ mười tuổi.

Mộ Thanh Yến không kìm được thở dài, thật ra Nghiêm lão đầu cũng có câu nói đúng, nhân duyên con cháu Mộ thị hai trăm năm chưa từng suôn sẻ, nghe hay không nghe lời đấng sinh thành thì kết cục cũng chẳng tốt hơn chỗ nào, không biết có phải đắc tội Nguyệt lão không nữa.

Sắc trời gần sáng, kính Bát quái trấn tà treo ở góc phòng lóe một tia, Mộ Thanh Yến vừa nhấc tay đã lấy được kính trấn tà xuống.

Chùi lớp bụi bên trên, mặt kính sáng đến mức soi mặt được phản chiếu một khuôn mặt đẹp trai trẻ trung, mũi cao môi mỏng, nét mặt sắc sảo, có điều ánh mắt thoáng ảm đạm. Mộ Thanh Yến có phần bất mãn, soi gương chỉnh lại nét mặt mình, giãn mặt mày, khẽ nhếch miệng khoe một ý cười dịu dàng đạm bạc…

Hắn chán nản ngã ngồi, một tay ụp mặt kính, một tay che mắt mình, hai vai run run, cả người vì bi thương mà rung động nhè nhẹ — cha!

Mộ Thanh Yến chưa từng tiếc cho ông cố hay ông nội, kết cục của họ đều do tự chọn, không biết từng có bao nhiêu thầy tốt bạn hiền thuyết phục khuyên lơn, họ đều ngoảnh mặt làm ngơ.

Rõ ràng sau khi cưới ông cố đã dần sinh tình ý, lại mặc cho sự ngạo mạn lạnh lùng của mình tổn thương vợ hiền, cuối cùng góa vợ ở nửa đời, có gì đáng tiếc? Ông nội thì biết rất rõ trong giáo cường địch vây quanh, ngôi chủ bất ổn, vẫn bỏ mặc mình tùy ý làm bậy, cuối cùng bị người anh em nuôi dụng ý khó dò đùa bỡn trong lòng bàn tay, có gì đáng tiếc?

Thế nhưng, Mộ Chính Minh có tội gì.

Cừu Trưởng lão không chỉ một lần chửi Mộ Chính Minh không có chí hướng, nhu nhược tùy kẻ địch.

Nhưng Mộ Thanh Yến biết, cha là có chí hướng. Chỉ có điều, chí hướng của ông không nằm trong Ly Giáo..

“Mộ thị nắm giữ Ly Giáo đã hai trăm năm, mỗi người con của Mộ thị sinh ra phải khổ tu không lười nhác, bên ngoài đấu với sáu phái Bắc Thần, bên trong khống chế bộ hạ kiệt ngạo. Đủ rồi, đủ rồi.” Bầu trời quang đãng, sao sáng khắp nơi, Mộ Chính Minh ôm con lên nằm trên nóc nhà, bên người có rượu, đỉnh đầu có bầu trời sao.

Ông quay sang nhìn con trai mỉm cười, khuôn mặt gầy gò, trầm tĩnh hiền từ, “Không nên bị dãy Hãn Hải vây khốn, Yến nhi, đừng để bị nơi này vây khốn, đi làm chuyện con muốn làm, đi con đường con muốn đi.”

Mộ Thanh Yến từng lật xem bản ghi chép của cha, từ thời bé vẽ nguệch ngoạc cho đến ghi chép thuở trung niên, đều miêu tả kỹ lưỡng trời đất rộng lớn ngoài kia, nhật nguyệt sơn hà, còn có đủ thứ phong thổ lượm lặt từ Du ký các loại.

Mộ Chính Minh vẫn luôn muốn rời dãy Hãn Hải.

Ông bắt đầu chuẩn bị từ năm mười bốn tuổi, nhưng lúc ấy Cừu Trưởng lão đau khổ cầu khẩn, bọn họ cùng phe Nhiếp Hằng Thành đấu đá ngươi chết ta sống, dần dần bị rơi xuống thế dưới, nếu không có chiêu bài mạnh nhất là Mộ Chính Minh, Nhiếp Hằng Thành lập tức có thể chiếm toàn bộ ưu thế. Kể từ đó, kẻ trung với Mộ thị lập tức sẽ bị tàn sát không e dè.

Mộ Chính Minh đành ở lại.

Sau đó, Tôn Nhược Thủy xuất hiện.

Lại sau đó Tôn Nhược Thủy có thai, ông không thể không cưới bà.

Ràng buộc trên người Mộ Chính Minh càng thêm nhiều.

Sau sau đó nữa, Cừu Trưởng lão cũng qua đời.

Mộ Chính Minh dù đau lòng nhưng thầm biết đây là kết cục tất yếu. Ông cẩn thận sắp xếp đường đi cho thù hệ tử đệ ngay dưới mi mắt Nhiếp Hằng Thành (tỷ như Du Quan Nguyệt), lúc định rời đi lần nữa thì ông bị đánh lén…

Đến khi năm năm sau quay trở về, ông ôm đứa con nhỏ không ai giúp đỡ tái nhợt ra khỏi căn phòng tối rách nát bẩn thỉu — Mộ Chính Minh biết mình không thể đi nữa.

Ông cũng đâu phải con cháu thế gia ngây thơ vô tri, ông biết bên ngoài dãy Hãn Hải là quang cảnh thế nào, ven đường chẳng những không phải chỉ là mảng bằng phẳng mà có thể khắp nơi mai phục, âm thầm chờ đợi săn tìm cha con nhà họ Mộ. Bản thân ông có thể bầu bạn với sông núi bữa đói bữa no, nhưng một đứa bé năm tuổi yếu đuối sợ hãi nào chịu được lang bạt kỳ hồ.

Ông là cha, buộc phải tìm cho con mình một hoàn cảnh thoải mái dễ chịu yên ổn lớn lên.

Thế là, ông đưa con ẩn cư ở Bất Tư Trai đỉnh Hoàng Lão.

Đến khi Mộ Thanh Yến mười bốn, Mộ Chính Minh bỗng dưng hứng chí trở lại, lần đầu tiên trong cuộc đời ông cảm thấy có thể ung dung thích chí rời đi bất kỳ lúc nào. Khi đó tu vi Mộ Thanh Yến đã không tầm thường, dù một mình ở lại dãy Hãn Hải hay là theo cha đi du hí bên ngoài, Mộ Chính Minh biết con trai đều đã thành thạo.

Ai ngờ, chẳng bao lâu ông bị độc hại, nửa năm sau qua đời.

Đến trước khi lâm chung, ông cũng không thổ lộ chân tướng. Ông biết lệ khí trong lòng con trai đã rất nặng, ông không muốn tăng thêm thù hận của con mình đối với thế gian này.

“Yến nhi, đừng cứ mãi nghĩ đến chuyện xấu, hãy nghĩ thêm chuyện tốt trên đời. Trời đất khoan thai, sông núi tráng lệ, ra ngoài đi một chút nhìn một chút, con sẽ rộng mở hơn rất nhiều.”

“Yến nhi, cha hy vọng đến tuổi già con nhìn lại cuộc đời này, lòng đầy phồn hoa như gấm, may mắn vì có thể đi trên cõi đời này một lần.”

“Yến nhi, nếu con không qua được cửa ải trong lòng, cha tán thành để con nhanh tay xử lý họ Nhiếp, nhưng đừng cho chúng chiếm quá nhiều chỗ trong lòng con, con phải chừa lại vị trí tốt nhất trong lòng mình.”

“Chừa lại làm gì à? Ha ha bé ngốc, chừa lại để mai này gặp được chuyện hay đó. Tỷ như, một cô nương khiến lòng con ngập tràn vui vẻ…”

Mộ Thanh Yến ôm mặt đau khổ khóc, lồ ng ngực như bị toác ra một lỗ, đau đớn không ngừng rót nước muối vào.

Không biết qua bao lâu, sắc trời rốt cuộc sáng rõ, chùm nắng mai xuyên qua lớp giấy dán cửa sổ đã hư hỏng rơi xuống người hắn, trái tim mông lung mù sương cả Mộ Thanh Yến bừng sáng. Hắn lảo đảo đứng dậy, ra khỏi phòng.

Đúng, hắn muốn đi tìm nàng, tìm cô nương làm tim hắn đầy hạnh phúc.



Phòng khách phía Tây điện Vô Ngung, Tống Úc Chi đang ở dựa cửa sổ nhìn trời.

“Đây là hổ cốt tốt nhất, đây là mật gấu mới lấy, còn mấy củ nhân sâm của Đại Sơn này nghe nói là từ sợi tùng kết thành. Đêm qua ta cũng đã đưa qua mấy nhánh cho Thái cô nương— cô ấy uống một mạch hai bát lận.”

Thượng Quan Hạo Nam chỉ mấy hòm chất đầy đồ quý giá lải nhai luôn miệng, “Tống công tử, dù hai ta môn phái đối lập, nhưng ta ân oán rõ ràng. Huynh cứu mạng ta, mấy món lễ mọn này để tỏ lòng biết ơn, mai còn có một hộp linh chi Tuyết thiền đưa tới nữa…”

“Ha ha ha ha…” Tống Úc Chi bỗng bật cười trầm thấp.

Thượng Quan Hạo Nam không hiểu: “Tống công tử cười cái gì.”

“Không có gì.” Tống Úc Chi nghiêm mặt ngồi, dưới nắng sớm càng lộ vẻ anh tư bừng bừng, “Đa tạ ý đẹp của Thượng Quan Đàn chủ, chỉ e là Úc Chi sẽ phải rời quý giao trong hôm nay.”

“Ơ, nhanh vậy?” Thượng Quan Hạo Nam đần mặt.



Lúc Mộ Thanh Yến đẩy cửa vào, Thái Chiêu đang ngồi đọc sách bên cửa sổ.

Cô mặc một bộ áo nhỏ màu đỏ hoa hồng vẽ chim tước bằng vàng, lụa gấm xanh nhạt buộc một chùm ở eo nhỏ, váy dài xếp nếp bách điệp thả xuống như mây, bên tóc cài một cây trâm lệch bằng vàng châu. Dưới nắng sớm, gương mặt cô gái trắng trong, lông tơ mềm mịn đáng yêu, như một pho tượng ngọc nhỏ đoan trang đang chăm chú.

“Chiêu Chiêu.” Mộ Thanh Yến đứng ở cửa.

Thái Chiêu ngẩng lên, nở nụ cười xinh đẹp: “Huynh về rồi.” Cô đứng dậy đi tới, kéo hắn đến ngồi bên cửa, rót chén nước đưa vào tay hắn.

Mộ Thanh Yến vuốt v e chén trà, như vị khách mỏi mệt quay về lại mái nhà ấm áp. Trong lòng hắn có muôn vàn lời, lại không biết nên nói từ đâu, “Chiêu Chiêu, nàng biết không, cha ta, cha ta là bị…” Cổ họng hắn mắc nghẹn, nói không ra lời.

“Là bị Tôn phu nhân làm hại.” Cô gái yên tĩnh nhìn hắn.

Mộ Thanh Yến khẽ giật mình: “Sao nàng biết.” Cuộc thẩm vấn đêm qua là cơ mật trong giáo, hẳn người ở đây sẽ không ai sẽ nói ra.

Thái Chiêu cụp mắt: “Huynh kính yêu lệnh tôn vậy, di ngôn lệnh tôn để lại sao không nghe theo được. Lệnh tôn rõ ràng đã bảo huynh phụng dưỡng Tôn phu nhân đến già, nhưng hôm ấy trước mặt Ngọc Hành Trưởng lão, huynh còn nói Tôn phu nhân có lẽ sống không lâu.”

Cô thở dài, “Chỉ có một tình thế khiến huynh có thể vi phạm di ngôn của lệnh tôn, đó chính là Tôn phu nhân làm chuyện mà dù thế nào huynh cũng không thể tha thứ— hại chết lệnh tôn.”

Trong nụ cười mỉm của Mộ Thanh Yến mang theo đắng chát: “Chiêu Chiêu thật thông minh.”

Mặt hắn âm lệ, lạnh lẽo âm u bổ sung, “Nghiêm Trưởng lão nói rất đúng, cách duy nhất có thể g iết chết phụ thân, chỉ có lòng nhân từ của ông ấy.”

Thái Chiêu không nói.

Mộ Thanh Yến buông chén trà ngồi dựa qua, ôm cô gái vào lòng, thật chặt. Hắn vùi đầu vào hõm cổ mềm mịn ấm áp của cô, thấp giọng nói, “Chiêu Chiêu, ta khó chịu.”

Thái Chiêu cứng đờ cả người, cô cảm thấy cổ mình nóng ướt hơi thở của chàng trai trẻ, mềm nhuyễn khiến người trầm mê, cô không cưỡng được ôm lại, khoác hai tay lên tấm lưng mềm dẻo đầy sức sống của hắn.

Cánh tay Mộ Thanh Yến dùng sức, như muốn khảm cô gái vào ngực mình, tan vào xương thịt.

Thái Chiêu cảm thấy chóp mũi bờ môi hắn cọ vào cổ mình, ngưa ngứa, mềm mềm, thân mật mà kịch liệt. Cô nhắm hai mắt, dùng hết toàn bộ sức lực đẩy mạnh ra, ra sức giãy thoát.

“Chiêu Chiêu?” Mộ Thanh Yến bị đẩy ra một bên, khuôn mặt như bạch ngọc còn ửng đỏ, ánh mắt hết sức kinh ngạc.

Nữ hài quay thẳng người đi, ngực phập phồng dữ dội. Một lát sau, cô quay lại mỉm cười, “Có chuyện nói với huynh, tôi tự ý trốn khỏi Tông môn đã hơn hai tháng, đã đến lúc quay về. Sớm còn hơn muộn, nên hôm nay xin cáo từ huynh.”

Huyết sắc trên mặt Mộ Thanh Yến chợt biến không còn một mảnh, “Nàng nói cái gì.”

Thái Chiêu quay sang một bên, lí nhí: “Tôi phải đi, về Thanh Khuyết tông.”

“… Nàng lặp lại lần nữa.” Ánh mắt Mộ Thanh Yến lạnh như nhũ băng phóng.

Thái Chiêu cứng cổ, “Nói một trăm lần cũng vậy. Đây là Ma giáo, tôi là con cháu Bắc Thần, Thiếu Quân đã đoạt lại ngôi vị Giáo chủ rồi thì tôi không thể ở lại nơi đây nữa.”

Mộ Thanh Yến cười lạnh một tràng dài, “Chỉ cần ta không gật đầu, nàng thử xem mình có thể ra ngoài hay chăng?!”

Mắt Thái Chiêu rưng rưng, dịu dàng nói: “Huynh đừng như vậy được không. Đoạn đường hai ta cho đến nay đều là duyên phận, bây giờ duyên phận đã hết, chúng ta sớm tụ sớm tan thôi.”

Mộ Thanh Yến phẫn nộ giơ tay áo, rầm rầm vang động một trận, ấm trà chén trà bị quét rơi vỡ vụn đầy đất. Hắn chỉ cô gái giận mắng: “Nàng cũng biết nói hai chữ duyên phận rồi! Tình cảm nàng ta đã đến mức này mà nàng còn tuỳ tiện nói ra những lời ấy, nàng thật đúng là một cô gái ác độc vô tình vô nghĩa không có tim gan!”

Thái Chiêu nhìn thấy hắn đỏ hốc mắt, quay lại giữ chặt cánh tay hắn, nức nở: “Sao huynh cứ phải nói lời nhảm, huynh biết rất rõ vì sao tôi phải rời đi mà.”

Mộ Thanh Yến hất cô ra, oán hận nói: “Nàng chẳng qua cũng chỉ nhát gan sợ phiền phức, lo người ta trách móc. Nàng quên những gì đã thấy trong địa cung sao? Giáo chủ Đông Liệt và La phu nhân có thể bỏ hết muôn vàn khó khăn, cuối cùng…”

“Nên là huynh cũng muốn giấu tôi trong địa cung chăng?” Thái Chiêu cao giọng ngắt lời hắn.

Mộ Thanh Yến ngây người.

Cô gái thở gấp gáp, nước mắt từng giọt từng giọt lăn, “Tôi vốn đang ôm lòng chờ mong, nhưng đến khi nhìn thấy toà cung điện dưới đất kia, biết ra câu chuyện về Giáo chủ Đông Liệt và La phu nhân, rốt cuộc tôi mới hiểu — hai ta chung quy là không có tương lai!”

Cô phẫn uất kêu lên, “Với quyền thế của Giáo chủ Mộ Đông Liệt, còn không thể cùng La phu nhân quang minh chính đại làm vợ chồng, không phải nấp trốn dưới địa cung thì là tha hương phương xa, thì hai ta phải thế nào chứ?!”

Sắc mặt Mộ Thanh Yến tái nhợt, mấp máy môi, chán nản ngã ngồi bên cửa sổ.

Thái Chiêu bi ai rơi lệ, dịu dàng ôm hắn: “La phu nhân có thể bỏ xuống thân bằng hảo hữu, đi theo Giáo chủ Mộ Đông Liệt quy ẩn biến mất — tôi không thể! Tôi thích phồn hoa náo nhiệt, thích cửa hàng thân quen… Huynh biết, tôi không buông nổi!”

Mộ Thanh Yến mờ mịt ngước lên, trước mắt chỉ thấy chiếc miệng nhỏ đỏ thắm của cô gái. Hắn ôm chặt cô, cọ cọ chóp mũi lên gương mặt cô, nói thật nhỏ: “Nàng hôn ta một cái đi. Hôn ta một cái, ta để nàng đi.”

Thái Chiêu khổ sở trong lòng, ấn nhẹ lên gương mặt gầy gò của hắn.

Hơi thở Mộ Thanh Yến nặng nề, lòng trống rỗng mờ mịt chỉ thoáng chốc đã bị lửa giận hừng hực lấp đầy. Hắn dùng sức bóp gáy cô gái, đè mạnh bờ môi nóng hổi, mang theo ý hận mút non mềm của cô vào.

Thái Chiêu bị vây trong ngực hắn nóng đến toát mồ hôi khắp, lòng đầy mê loạn luống cuống, níu lấy một tia tỉnh táo cuối cùng ra sức cắn, giữa răng môi tỏa ra một mùi máu tươi xa lạ, không biết là máu ai.

Cô cố sức giãy ra, cố gắng đứng vững, ngước lên nói: “Cô cô đã dạy tôi, lớn lên rồi, mọi chuyện buộc phải suy nghĩ cẩn thận hậu quả, không được mơ mơ hồ hồ.”

“Năm mười bốn bà rời Bội Quỳnh Sơn trang, đã nghĩ qua tình hình xấu nhất chắc là tan vỡ hôn ước. Bà đã nghĩ thông suốt, tình nguyện gánh chịu hậu quả mất đi nhân duyên, sải bước ra ngoài.”

“Bà cũng biết hậu quả khiêu chiến Nhiếp Hằng Thành không phải là bỏ mình bại trận thì cũng là toàn thân tẫn phế. Bà đã nghĩ thông suốt, tình nguyện xả thân muôn lần chết cũng muốn loại trừ Nhiếp Hằng Thành. Cho dù sau này triền miên giường bệnh hơn mười năm, bà cũng chưa từng hối hận.”

“Tôi vẫn luôn nhớ lời của cô cô, thế nhưng từ khi gặp được huynh tôi lại mơ hồ — ở bên huynh rồi sẽ có kết cục gì, tương lai của chúng ta sẽ như thế nào, cha mẹ thân hữu có thể bị tôi liên lụy hay không, tôi vẫn không muốn nghĩ tới.”

Thái Chiêu chùi nước mắt, quật cường nói: “Nhưng bây giờ tôi đã nghĩ rõ rồi. Thù oán giữa Ma giáo và sáu phái Bắc Thần đã sâu, thế bất lưỡng lập. Tôi sẽ không vì huynh bỏ đi cha mẹ bạn ném đi gia nghiệp, sẽ không vì bất kì ai cả!”

“Chỉ mong Thiếu Quân hiểu chuyện, niệm tình nghĩa trước đây của hai ta, xin hãy thả tôi và sư huynh xuống núi. Nếu Thiếu Quân nhất định phải ép tôi ở lại…” Cô đặt tay phải lên bên hông, vẻ mặt quyết tuyệt, “Năm đó vong hồn dưới Diễm Dương đao vô số, tất nhiên tôi sẽ không đánh mất uy doanh của cô cô, cùng lắm thì chết trong U Minh hoàng đạo cũng tốt!”

“Không cần.” Mộ Thanh Yến chậm rãi đứng dậy, mặt như băng lạnh, “Thái cô nương đã hết lời ngon ngọt, ta có không biết bẽ mặt cũng không trở thành kẻ dây dưa quấn quýt không rời đâu. Huống chi vừa mới diệt trừ Nhiếp thị, việc vụn vặt trong giáo rất nhiều, hơi đâu rảnh rỗi ép sư huynh muội các người ở lại.”

Hắn sải bước ra cổng, nửa đường thoáng lướt qua Thái Chiêu cũng không thèm ngoái đầu lại, “Vậy đi, tạm biệt không tiễn.”

Từng bước một đi ra khỏi phòng, tim từng tấc từng tấc lạnh lẽo hoá cứng, chết lặng đến không còn biết đau đớn.

Hắn nghĩ, chung quy cả đời hắn cũng vẫn luôn đơn côi.