Dịch giả: nh0ckd255

Vù vù!

Gió mạnh cuốn tới, mưa to như trút. Chiếc thuyền có ba cột buồm lên xuống theo từng cơn sóng cao như ngọn núi hệt như một món đồ chơi bị người khổng lồ quẳng đi rồi đón lấy, tiếp được lại quăng đi.

Màu đỏ sậm rút đi khỏi mắt Arges Wilson, anh phát hiện mình đang đứng trên sàn tàu, không khác gì lúc trước.

Ngay sau đó anh ta thấy chiếc bình thuỷ tinh có hình dáng cổ quái trong lòng bàn tay vỡ vụn, sương tuyết tan thành nước hòa vào trong giọt mưa.

Chỉ hai ba giây ngắn ngủi, thứ đồ vật thần kỳ thuộc thời cổ này đã hoàn toàn không để lại dấu vết của việc từng tồn tại.

Một bông tuyết trong suốt hình lục giác hiện ra trên lòng bàn tay Arges, sau đó dần nhạt đi, cuối cùng biến mất, dường như đã ẩn vào trong da thịt.

Arges như tự hỏi điều gì đó mà gật đầu nhẹ tới mức gần như không nhận ra được, rồi im lặng chừng năm phút.

Anh ta quay người lại, đi tới hướng cửa vào khoang thuyền. Khi chuẩn bị bước vào trong, thì gặp được một người đàn ông cũng mặc áo choàng có thêu hình tia chớp đi ra.

Người đàn ông có mái tóc vàng mềm mại này dừng chân lại, nhìn Arges, giơ nắm tay phải ra đặt trước ngực, nói:

“Bão Táp tồn tại cùng anh.”

“Bão Táp tồn tại cùng anh.”

Khuôn mặt với đường nét góc cạnh và tục tằng của Arges chút cảm xúc dư thừa nào, anh ta cũng nắm tay phải lại rồi đánh lên ngực trái.

Sau khi hành lễ với nhau xong, Arges bước vào khoang thuyền, men theo lối đi nhỏ tới buồng thuyền trưởng.

Dọc đường đi anh ta lại chẳng hề gặp thêm bất cứ thuỷ thủ hay thuyền viên nào. Nơi này yên tĩnh hệt như một hầm mộ.

Cửa buồng thuyền trưởng đang mở. Một tấm thảm dày màu nâu sậm mềm xuất hiện trước mặt Arges, hai bên theo thứ tự là giá sách và tủ rượu. Một quyển sách với phần bìa đã ngả vàng với một chai rượu nho màu đỏ rậm loé lên thứ ánh sáng bóng loáng khác thường dưới ánh sáng của ngọn nến.

Trên bàn sách đặt cây nến kia có một lọ mực nước, một cây bút lông vũ, một chiếc kính viễn vọng làm từ kim loại màu đen và một chiếc kính lục phân được chế tạo nên từ đồng thau.

Phía sau bàn, một người đàn ông trung niên với sắc mặt tái nhợt, đội mũ thuyền trưởng xương khô nhìn Arges bước tới, phẫn nộ nghiến răng nói:

“Tao sẽ không khuất phục.”

“Tôi tin là ông làm được.” Arges bình tĩnh nói như thể đang bảo là thời tiết hôm nay không được đẹp cho lắm.

“Mày...” Người đàn ông trung niên giật mình, dường như không ngờ rằng sẽ nhận được một câu trả lời như vậy.

Đúng lúc này, Arges khẽ cong người lại rồi lao vọt tới, nhanh chóng kéo gần khoảng cách giữa hai người chỉ còn lại chiếc bàn học.

Pạch!

Bả vai anh ta căng lên, giơ tay phải ra nắm lấy cổ họng người đàn ông trung niên.

Không cho đối phương cơ hội phản ứng, mu bàn tay Arges hiện lên những mảnh vẩy cá hư ảo. Năm ngón tay nắm chặt lại.

Rắc rắc!

Trong tiếng vang giòn tan, đôi mắt người đàn ông trung niên đầy kinh ngạc, thân thể ông ta bị nhấc lên.

Ông ta vùng lắc đôi chân dữ dội, nhưng rồi nhanh chóng dừng lại. Trong tầm mắt mờ mịt kia, đồng tử bắt đầu giãn ra. Chỗ đũng quần bắt đầu ướt, bốc ra mùi khai.

Arges nhấc người đàn ông trung niên lên, khom người lại, chân thì bước tới bức tường bên cạnh.

Rầm!

Arges lấy người đàn ông làm tấm khiên mà đánh mạnh tới phía trước với cánh tay to và khoẻ như tay quái vật.

Bức tường làm từ gỗ lập tức vỡ tung. Mưa gió cuốn mùi tanh của nước biển vào trong phòng.

Arges xoay người rồi ném người đàn ông trung niên ra khỏi khoang thuyền vào trong những ngọn sóng to như ngọn núi đang nối tiếp nhau mọc lên.

Bầu trời tối om, mưa gió rít gào, sức mạnh tự nhiên to lớn đã vùi dập tất cả.

Arges lấy một chiếc khăn tay màu trắng ra lau thật kỹ tay phải, sau đó cũng ném nó vào trong biển cả.

Anh ta lùi ra sau vài bước, kiên nhẫn chờ đồng bọn đi vào.

“Chuyện gì thế?” Không đến mười giây sau, người đàn ông có mái tóc vàng mềm mại vọt vào trong phòng.

“’Thuyền trưởng’ bỏ chạy rồi." Arger thở phì phò, ảo não nói: “Ông ta lại vẫn giữa được mấy phần lực phi phàm!”

“Chết tiệt!" Người đàn ông tóc vàng khẽ mắng một tiếng. Anh ta đi tới chỗ vỡ nhìn ra phương xa. Nhưng ngoài mưa gió và sóng biển ra thì chẳng nhìn thấy gì khác.

“Thôi, ông ta chỉ là thứ yếu thôi.” Người đàn ông tóc vàng phất tay: “Có thể tìm được chiếc thuyền u linh thuộc thuyền chiến của thời đại Tudor, chúng ta chỉ có công chứ không có tội.”

Cho dù là người thân thiết với biển rộng, nhưng với cái loại thời tiết thế này anh ta cũng không dám lặn vào trong nước.

“Hơn nữa nếu bão táp cứ tiếp tục thì ‘thuyền trưởng’ sẽ không chống đỡ được lâu.” Arges gật đầu, phát hiện bức tường gỗ bị vỡ kia bắt đầu phục hồi phần bị vỡ với tốc độ mà mắt thường có thể thấy được.

Anh ta nhìn thật chăm chú, sau đó theo bản năng nhìn về chỗ cánh buồm và bánh lái. Cho dù là cách lớp vách gỗ khá dầy, anh ta cũng có thể biết rõ tình huống nơi đó như nào.

Không có lái chính, không có phụ lái, không có thuyền viên, không có thuỷ thủ, thậm chí là không có người sống!

Nơi đó không có vật gì cả, bánh lái và cánh buồm đang tự điều chỉnh một cách kỳ dị.

Hình ảnh vị "Kẻ Khờ" mà toàn thân bị bao phủ trong màn sương xám lại hiện ra trong đầu, Arges bỗng thở dài. Anh ta quay đầu nhìn sóng to gió lớn bên ngoài, nói với ngữ khí vừa chờ mong, vừa e sợ, lại như nói mớ:

“Một thời đại mới đã bắt đầu...”

...

Khu Hoàng Hậu ở thủ đô Backlund của vương quốc Ruen.

Audrey Hall véo khuôn mặt mình, dường như không thể tin được những gì mình vừa trải qua.

Chiếc gương đồng cổ xưa trên bàn trang điểm trước mặt cô ta đã vỡ thành từng mảnh.

Dời mắt sang nơi khác, Audrey thấy chỗ mu bàn tay mình có "đỏ sậm" đang loé lên, hệt như "hình xăm" ngôi sao. "Đỏ sậm" dần tối đi, cuối cùng ẩn vào trong da, không còn thấy gì nữa.

Mãi tới lúc này Audrey mới xác định là mình không nằm mơ.

Cô nàng đung đưa mặt, miệng khẽ mỉm cười, nhịn không được mà đứng dậy khom người nhấc làn váy lên.

Sau khi cúi người thi lễ với không khí, Audrey nhẹ nhàng chuyển động cơ thể, nhảy điệu múa "Tinh linh cổ" lưu hành nhất trong cung đình đương thời.

Bóng dáng nhẹ nhàng, nụ cười sáng rực toả khắp khuôn mặt.

Cốc cốc cốc! Đột nhiên cửa phòng ngủ bị người ta gõ.

“Ai vậy?” Audrey dừng nhảy, bày ra một tư thế rất nhã nhặn.

“Thưa cô chủ, có vào được không? Cô nên chuẩn bị rồi.” Hầu gái đứng ngoài hỏi.

Audrey nghiêng đầu nhìn chiếc gương trên bàn trang điểm, nhanh chóng chuyển từ cười tươi thành cười mỉm.

Cô nhìn trái nhìn phải, xác nhận hình tượng hiện giờ của mình không có vấn đề gì thì mới dịu dàng nói:

“Vào đi.”

Nắm cửa bị xoay, hầu gái Annie của cô đẩy cửa bước vào.

“Ô, vỡ rồi...” Annie liếc mắt là thấy kết cục của chiếc gương đồng cũ kia.

Audrey chớp chớp mắt, lập tức từ tốn nói:

“Ây, là, ừm, lúc nãy Susie chạy vào, mà cô biết rồi đó, nó hay quậy phá lắm!”

Susie là một con chó lông vàng với huyết thống không được thuần khiết cho lắm, là quà tặng mà bá tước Hall, cha của Audrey, nhận được khi mua chó săn cáo, nhưng Audrey rất là thích.

“Cô phải dạy dỗ nó một trận mới được.” Annie quen thuộc dọn dẹp mảnh vỡ của gương đồng, sợ cô chủ của mình bị thương.

Xong xuôi, cô ta nhìn Audrey, mỉm cười dò hỏi: “Cô chủ muốn mặc chiếc váy nào?”

Audrey bỏ qua việc suy nghĩ mà nói luôn: “Tôi thích chiếc váy mà phu nhân Ginia đã thiết kế riêng cho tôi lúc sinh nhật mười bảy tuổi.”

“Không được, người ta thắc mắc không biết liệu có phải gia tộc Hall bị khủng hoảng tài chính, mà một cái váy lại mặc ở trường hợp chính thức tới hai lần!” Annie lắc đầu phủ định.

“Nhưng là tôi rất thích nó mà.” Audrey ôn hoà nhưng cường điệu câu nói này.

“Cô có thể mặc ở nhà, ở những trường hợp không chính thức.” Annie tỏ ra không có chỗ thương lượng trong chuyện này.

“Vậy chiếc váy mà ngài Sydes đưa tới hôm kia đi, cái váy có mép cổ tay áo là lá sen ấy.” Audrey khẽ hít vào một hơi, và vẫn giữ vững nụ cười ngọt ngào tao nhã.

“Cô chủ vẫn luôn tinh mắt như vậy.” Annie cười, lùi ra sau một bước rồi hô với người ngoài cửa: “Phòng để quần áo thứ sáu, mà thôi, tự mình đi lấy vậy.”

Đám hầu gái bắt đầu lu bù lên. Một người phụ trách váy dài, một người phụ trách trang sức, một người nữa thì lo liệu phần giầy dép, một người phụ trách mũ lụa, một người nữa thì lo trang điểm cho cô chủ Audrey, một người lo phần kiểu tóc.

Sau khi sắp chuẩn bị xong, bá tước Hall mặc áo gile màu nâu sậm xuất hiện ở cửa.

Ông ta đội một chiếc mũ dạ cùng màu với quần áo, để hai hàng ria mép khá đẹp, đôi mắt xanh thẳm kia ngập tràn ý cười. Nhưng mà cơ bắp lỏng lẻo, phần bụng hơi phệ cùng những nếp nhăn trông khá rõ kia đã vô tình phá đi vẻ anh tuấn của ông ta thời trẻ.

“Viên đá quý sáng nhất Backlund, chúng ta nên xuất phát rồi.” Bá tước Hall đứng ở lối vào, khẽ gõ hai lần lên cánh cửa đã mở sẵn.

“Ba à, đừng có gọi con như vậy.” Audrey được hầu gái dìu đứng dậy, cố ý tỏ ra rầu rĩ.

“Vậy công chúa nhỏ xinh đẹp của ba, nên xuất phát thôi.” Bá tước Hall gập tay trái lại, tỏ ý muốn Audrey khoác tay lên.

Audrey khẽ cười, lắc đầu:

“Đây là vị trí của phu nhân Hall, bá tước phu nhân, mẹ yêu dấu của con mà.”

“Là bên này.” Bá tước Hall mỉm cười đưa tay phải ra: “Đây coi như là niềm kiêu ngạo của một người cha.”

...

Căn cứ hải quân hoàng gia ở đảo Cây Sồi, cảng Pritz.

Khi Audrey khoác tay cha mình đi xuống xe ngựa, cô nàng lập tức khiếp sợ bởi một con quái vật lớn ở trước mặt.

Trong cảng quân đội cách đó không xa, một chiếc chiến hạm nguy nga toàn thân loé ra ánh sáng kim loại đang neo đậu nơi đó. Nó không có buồm, chỉ còn lại đài quan sát và hai ống khói cao, thêm hai chiếc bệ pháo lộ thiên ở đầu và đuôi tàu.

Nó hùng vĩ như thế, khổng lồ như thế, khiến cho những con tàu chiến cánh buồm đậu gần đó hệt như một đám người lùn mới sinh đang vây quanh một người khổng lồ.

“Bão Táp trên cao...”

“Ôi chúa tể của tôi ơi!”

“Tàu chiếc bọc thép!”

...

Những tiếng than đầy sợ hãi nho nhỏ đan xen vào nhau. Audrey cũng có cảm giác tương tự, đó chính là kỳ tích mà con người sáng tạo ra, là kỳ tích hải dương mà trước nay chưa từng có!

Không biết bao lâu sau, quý tộc, đại thần và các nghị sĩ hạ viện mới bình tĩnh trở lại. Lúc này, một chấm đen giữa không trung từ nhỏ hoá lớn, dần chiếm cứ một phần ba bầu trời, chiếm giữ tầm mắt của mọi người, làm cho bầu không khí đột nhiên trang nghiêm hẳn.

Đây là một vật thể to lớn bay lượn giữa không trung với đường cong rất duyên dáng và đẹp đẽ, toàn thân được sơn màu xanh đậm. Khung kim loại chắc chắn và nhẹ nhàng chống đỡ những lớp vải bông có chứa túi khí nhẹ. Bên dưới có treo nòng súng hữu cơ, miệng thả bom, phần che miệng pháo bắn ngang. Tiếng ù ù to lớn do đốt máy hơi nước và âm thanh tạo ra do phần cánh mái chèo ở đuôi đang quay vù vù cấu tạo nên khúc nhạc chấn động lòng người.

Vua và người nhà đi thuyền bay đến đây, mang theo vẻ uy nghiêm nhìn xuống tất cả.

Một chiếc huy hiệu dựng thẳng với phần chuôi là "Thanh kiếm thẩm phán" vương miện hồng ngọc ở hai bên mái che phản xạ ánh mặt trời. Đây là biểu tượng lưu truyền đã lâu của gia tộc Augustus, có thể truy ngược tới tận kỷ trước đó.

Audrey chưa tròn mười tám tuổi nên vẫn chưa tham gia "nghi thức giới thiệu", đó là được hoàng hậu dẫn dắt mà chính thức gia nhập những cuộc xã giao ở Backlund để tuyên bố là đã trưởng thành, nên chỉ có thể đứng im tại chỗ mà nhìn, không thể tới gần.

Chẳng qua cô ta không để ý cho lắm, thậm chí còn thấy thoải mái vì không phải đối mặt với các vị hoàng tử.

"Dấu tích thần kỳ" của việc con người chinh phục được bầu trời vững vàng tiếp đất. Nhóm người đầu tiên theo thang cuốn xuống dưới trước chính là đám thị vệ trẻ tuổi có tư thế oai hùng. Bọn họ mặc lễ phục quân đội màu đỏ, quần dài màu trắng, đeo huân dải trên người, tay cầm súng trường. Bọn họ chia làm hai nhóm sang hai bên, yên lặng chờ đợi vua George đệ Tam, hoàng hậu, hoàng tử và công chúa xuất hiện.

Không phải là Audrey chưa gặp các nhân vật lớn bao giờ nên cô chẳng hề hứng thú lắm, ngược lại cô nàng đảo mắt xung quanh nhìn hai vị kỵ sĩ mặc áo giáp đen hệt như hai bức tượng bên người nhà vua.

Tại thời đại sắt thép, hơi nước và súng pháo này, thế mà vẫn còn có kẻ kiên trì mặc áo giáp toàn thân!

Bộ áo giáp màu đen thâm trầm, sáng bóng thứ ánh sáng kim loại lạnh lẽo như băng khiến người ta có cảm giác nặng nề, uy nghiêm và bị ép phải phục tùng.

Chẳng lẽ là "Kỵ sĩ trừng phạt" của danh sách cấp cao... Audrey nhớ tới mấy câu nói chuyện phiếm của các vị cha chú trong nhà, rõ là muốn tới nhìn cho biết mà lại không dám tới gần.

Khi gia đình nhà vua tới, nghi thức mới bắt đầu. Thủ tướng đương nhiệm, huân tước Argusid Negan đi tới trước mặt mọi người.

Ông ta là thành viên của đảng Bảo thủ, là một trong hai nhân vật duy nhất không dựa vào thân phận quý tộc mà trở thành thủ tướng, nhờ có sự cống hiến nổi bật nên được trao tặng huân tước.

Đương nhiên Audrey biết nhiều hơn, anh trai của Argusid, người ủng hộ chủ yếu của đảng Bảo thủ có tên là Pallas Negan, là vị công tước Negan thế hệ hiện tại!

Argusid chừng năm mươi tuổi, có vóc dáng cao gầy, tóc khá thưa, ánh mắt sắc bén. Ông ta nhìn xung quanh một lượt rồi mới nói:

“Thưa các quý ông, quý bà, tôi tin rằng các vị đã thấy được đây là một con tàu chiến bọc thép, là một tàu chiến có thể đảo điên được thời đại. Nó dài 101 mét, rộng 21 mét, có thiết kế mạn thuyền cao cấp, được bọc lớp thép dày 457 mm, nặng 10.060 tấn. Đằng trước và đằng sau có bốn cửa cho pháo chính 305 mm, ngoài ra còn 6 cửa pháo bắn nhanh, 12 cửa 6 pháo cạnh, 18 cửa súng máy, 4 ống phóng ngư lôi, tốc độ có thể đạt tới 16 nút*! Nó chính là bá chủ chân chính, sẽ chinh phục đại dương mênh mông!"

Các vị đại thần, quý tộc và nghị sĩ xôn xao, bởi chỉ với lời miêu tả của thủ tướng thôi cũng có thể khiến bọn họ tưởng tượng ra sự khủng khiếp của con tàu chiến bọc thép này là như nào, huống chi vật thật còn đang ở ngay trước mặt!

Argusid nở nụ cười tươi, sau đó lại diễn thuyết vài câu, rồi hành lễ với vua George đệ Tam và nói:

“Thưa bệ hạ, xin bệ hạ hãy đặt tên cho nó đi.”

“Bắt đầu từ cảng Pritz, vậy thì gọi nó là tàu Pritz đi.” Vua George đệ Tam nói với vẻ mặt khá là vui sướng.

“Tàu Pritz!”

“Pritz!”

...

Từ đại thần hải quân, vị tổng tư lệnh hải quân hoàng gia mà cái tên này được truyền ra theo thứ tự, cuối cùng đi tới trên tàu chiến bọc thép, do đám sĩ quan và binh sĩ cùng hoan hô:

“Tàu Pritz!”

Trong bầu không khí chúc mừng, tiếng súng bắn chào vang lên liên tục, vua George đệ Tam bắt đầu hạ lệnh bắn thử.

Ù!

Tiếng còi hơi vang lên, từng cột khói đặc phun ra từ trong ống khói, có thể mang máng nghe được tiếng máy móc chuyển động.

Con quái vật kia khởi hành. Khi nó ra khỏi cảng, dùng hai ổ pháo chính trên tàu bắn vào hòn đảo nhỏ không người ở phía trước, mọi người đều khiếp sợ.

Đùng! Đùng! Đùng!

Mặt đất như bị rung lắc, bụi mù bắn lên trên không. Gió lớn thổi quét ra ngoài làm dấy lên sóng biển cao.

Thủ tướng Argusid hài lòng quay đầu nói với quý tộc, đại thần và các nghị sĩ:

“Từ giờ trở đi, bảy tên hải tặc tự xưng là tướng quân và bốn tên hải tặc lại dám xưng vua kia chỉ có thể run rẩy chờ tận thế giáng xuống mà thôi! Thời đại của chúng đã kết thúc rồi! Cho dù chúng có bao nhiêu lực phi phàm, có tàu u linh hoặc thuyền bị nguyền rủa, nhưng thứ có thể tung hoành khắp các hải dương cũng chỉ có thể là tàu chiến bọc thép!”

Lúc này, thư ký trợ lý của Argusid cố ý hỏi:

“Vậy bọn họ không thể tự chế tạo tàu bọc thép cho mình sao?”

Một bộ phận quý tộc và nghị sĩ ngầm gật đầu, cho rằng không thể loại trừ khả năng này được.

Argusid lập tức cười tươi, thong dong lắc đầu, nói:

“Không thể! Vĩnh viễn cũng không làm được! Muốn chế tạo ra một tàu bọc thép như này thì cần thể kết hợp môi cương loại lớn, cần hai mươi xưởng sắt thép có quy mô lớn, cần viện nghiên cứu đại bác Backlund, sáu mươi nhà khoa học của viện nghiên cứu thuyền Pritz và rất nhiều kỹ sư cao cấp. Cần hai xưởng đóng tàu hoàng gia và gần trăm xưởng linh kiện trực thuộc nó. Cần một đội hải quân, một uỷ ban chế tạo thuyền, một nội các, một vị vua lỗi lạc có con mắt tinh đời và kiên định cùng một quốc gia có sản lượng sắt thép 1.200 vạn tấn một năm! Đám hải tặc kia không bao giờ có thể làm được!”

Nói tới đây, ông ta dừng lại một chút, sau đó giơ hai tay lên, hùng dũng hô to:

“Hỡi các quý ông, quý bà, thời đại của chiến hạm và đại bác đã tới rồi!”

*Nút: là đơn vị đo tốc độ tương đương 1 hải lý/giờ hay 1852 m/h.