Phần 4:

Sau khi Tiếu Diễm xuất chinh, tin đồn nhảm chưa từng ngừng nghỉ. Tất cả mọi người đều cho rằng trận này hung hiểm, cho dù hắn có tài điều binh khiển tướng thế nào cũng khó thoát khỏi cửa tử.

Ta lo sợ không yên nên chẳng màng ăn uống.

Quán rượu, rạp hát, quầy tơ lụa,... nghĩ tới cái gì là ta đi học kinh doanh cái đó. Ta muốn đến chùa khấn Phật mà sợ người có lòng thấy được sẽ bịa chuyện không hay.

Ít nhất thì người nằm chung chăn gối với Tiếu Diễm không nên xem thường hắn.

Cứ thế, có phu nhân quan lớn tới cửa thăm hỏi. Trong lòng bà ta có quỷ nên lại nhắc đến Tiếu Diễm, ta thì vờ như không có chuyện gì.

Đặc biệt là có một vị phu nhân của võ tướng mới thăng chức lên nhị phẩm. Tính cả triều này không có nhiều võ tướng được mang danh hào, phu quân nàng là một trong số đó, thành ra nàng càng quái gở hơn người thường.

Ta chăm chú nhìn nàng: “Ta cho rằng tướng sĩ có thể đánh bại Hầu gia còn chưa được sinh ra đâu.”

Một lúc lâu sau nàng mới phản ứng lại được. Ta chỉ cây dâu mắng cây hòe nói phu quân nàng là hạng xoàng xĩnh, làm mặt nàng lúc xanh lúc đỏ mà mãi không cãi lại nổi, cuối cùng xấu hổ bỏ đi.

Thiện Nhi nói mấy vị phu nhân đó cả ngày chỉ biết ru rú trong góc nhà, chưa từng có lão gia nào giống như Tiếu Diễm cổ vũ các nàng ra ngoài làm việc, để ai cũng có thể làm chuyện họ muốn làm. Cho nên ngoài khua môi múa mép ra thì họ chẳng biết làm gì hơn.

Ta ôm lò sưởi tay ấm áp, ngó tháng ngày trôi đến cuối đông.

Tuyết rơi rào rạt, ta cho người dọn dẹp kịp thời, sợ Tiếu Diễm đêm khuya quay về gặp đường phủ tuyết thì khó đi.

Ta nhìn ánh nến trước cửa phủ vàng một mảng đất tuyết: “Bảo các nàng đáng thương thì trên đời còn nhiều người nghèo khổ không có cơm ăn. Bảo các nàng không đáng thương thì toàn là các cô nương được nuông chiều từ nhỏ, suốt cuộc đời lại không có mấy ai gả được lang quân như ý.”

“Mà đâu phải chỉ cần gả được cho người tốt là thôi, muốn đôi bên đều có tình thì càng hiếm thấy hơn.”

Thiện Nhi giúp ta khoác thêm một lớp áo ngoài, khuyên ta nên về phòng ngủ sớm.

Ta một bên tự nhủ bản thân nên vào nhà, một bên lại không nhịn được mà dõi mắt vào trong bóng đêm đen đặc.

Tiếu Diễm đi nhanh lắm. Mỗi khi hắn có nhà thì ta hay trông ra cửa viện, chỉ cần hắn làm xong việc là cưỡi gió về ngay. Chỉ trong nháy mắt mà hắn đã có thể đi từ cửa viện đến mấy cây hải đường. Hắn sẽ nhảy hai, ba bước lên thềm đá ôm lấy ta vào lòng.

Mỗi một lần chớp mắt ta đều nghĩ rằng, có khi nào khi mở mắt ra sẽ thấy Tiếu Diễm xuất hiện bên cạnh cây hải đường hay không.

Ta chỉ cần hắn giữ được mạng quay về nhà. Cho dù có thiếu tay, thiếu chân, thiếu lỗ tai hay đôi mắt cũng được. Ta nuôi nổi hắn mà.

Từ lúc hắn xuất chinh đến nay đã có bốn tháng không nhận được tin gì. Trận này tuyệt mật đến mức một chút phong thanh cũng không thổi ra ngoài.

Tận đến đêm giao thừa, ta và Thiện Nhi thức đến khoảnh khắc cuối cùng trong năm thì thấy pháo hoa nhuộm hồng phía chân trời. Lúc đó không hiểu sao ta cảm thấy hoảng hốt đến độ tay chân run rẩy.

Ta nắm chặt tay Thiện Nhi, cảm thấy răng hàm rụng rời hết cả: “Thiện Nhi nói xem, im bặt không một tin tức thế này có khi nào, có khi nào là... Thánh Thượng sợ để lộ việc mãnh tướng ngã xuống sẽ dẫn tới hỗn loạn, thế nên giữ bí mật không cho ai hay?”

Thiện Nhi tuy tuổi trẻ nhưng là người được đích thân Tiếu Diễm dạy dỗ. Nàng chững chạc và già dặn giống hắn, cho nên ta vẫn luôn rất lệ thuộc vào nàng.

Không ngờ là Thiện Nhi nghe ta nói xong thì lập tức rơi lệ.

Nàng nắm ngược lại tay ta, giọng nói có vài phần hoang mang lo sợ: “Phu nhân, người cần phải lo liệu cho cái nhà này. Lỡ như Hầu gia không về được, phu nhân cần phải chống đỡ cả Hầu phủ, không thể để người đời miệt thị uy nghi của Vệ Quốc Hầu.”

Dạ dày khó chịu quặn đau, ta cúi người nhào vào lòng Thiện Nhi, tay chân lạnh lẽo chết lặng hết cả rồi.

Nhưng ngày tháng nơm nớp lo sợ thế này nào có chỗ nhàn rỗi, mới mùng bảy tháng giêng ta đã được gọi vào Đông Cung. Mười sáu cùng tháng mới khai triều, bây giờ trong cung không có nhiều người qua lại.

Ta hoảng sợ trong lòng, trước khi vào cung có ra lệnh cho gã sai vặt đáng tin đến Tam Vương phủ một chuyến để truyền tin. Nếu như Thái tử thật sự dám đụng vào ta thì hy vọng Tam Hoàng tử ra tay hỗ trợ.

Đông Cung, Đông Cung, cung điện ở phía thành Đông nơi trăng soi sáng nhất.

Thái giám truyền lời, báo là Thái tử phi thương tình ta trấn giữ Hầu phủ một mình, nay còn ngay đúng tháng giêng nên muốn mời ta vào cung bầu bạn mấy ngày.

Ta và Thái tử phi chưa từng gặp mặt, dẫu có thanh danh hiền đức thì lời này cũng quá gượng ép.

Thái tử phi đứng ra mời, đến lúc Thiện Nhi đỡ ta bước vào Đông Cung lại thấy mỗi một mình Thái tử. Khi ấy ta biết ngay là việc này không hay rồi.

Hắn nói thì dễ nghe lắm, bảo là lỡ như Tiếu Diễm không về, góa phụ như ta chỉ có thể phụ thuộc vào hắn mới dễ sống. Mặt ngoài còn kiếm thêm cho hắn ít thanh danh, coi như Tiếu Diễm có chết rồi cũng có thể giúp đỡ hắn lần cuối, đúng là chuyện gì cũng muốn vơ vào trong túi.

Ta bắt giữ đúng trọng điểm, cố nén ghê tởm hỏi hắn: “Thái tử điện hạ, nghe ngài nói vậy có nghĩa là Hầu gia còn chưa chết đúng không?”

Thái tử vỗ bụng béo núng nính mỡ. Hắn muốn ta hết hy vọng nên nói: “Tuy chưa có tin người đã chết, nhưng chiến sự đang hồi nguy hiểm, dữ nhiều lành ít, bổn cung đang suy nghĩ cho phu nhân thôi.”

Nhìn bộ dạng hắn thế này thì không chừng còn muốn ta nản lòng thoái chí, chủ động nhào vào trong lòng hắn.

Ta hừ lạnh một tiếng, đứng dậy nhìn cây cột ngay bên cạnh: “Phu nhân? Thần phụ là phu nhân của Vệ Quốc Hầu Tiếu Diễm chứ không phải là phu nhân của điện hạ.”

Nói xong, ta tức khắc đâm đầu vào cây cột kia. Thiện Nhi sợ tới mức lăn một vòng tới đỡ ta.

Máu tươi chảy ròng trên thái dương, ta bám vào Thiện Nhi, chóng mặt nằm liệt dưới đất. Ta nhìn Thái tử hiện ra bóng chồng bóng, chịu đựng cơn đau nói với hắn: “Ta đã sai người báo tin cho tam điện hạ. Nếu hôm nay ta không thể sống sót bước ra khỏi Đông Cung, ngài ấy sẽ tung tin ra ngoài nói là Thái tử điện hạ mưu đồ quấy rối, bức tử mệnh phụ.”

Đâm cột hay nhảy giếng, chỉ cần hắn dám chạm vào ta thì ta lập tức chết ở Đông Cung của hắn.

Thái tử thấy ta thật sự dám đem mạng sống ra cược thì lùi ra sau mấy bước liền. Đôi tay muốn đỡ lấy ta treo hai bên sườn, hắn khuyên ta không cần tự sát, sau vài câu tán gẫu thì bỗng dưng nảy sinh lòng tốt đưa ta về Hầu phủ.

Đúng là đồ miệng hùm gan sứa.

Ta không thể hoàn toàn xé rách mặt, đành giãy giụa làm lễ bái hắn: “Thần phụ không có phúc, khó khăn lắm mới tới được Đông Cung lại bất cẩn bước hụt bậc thang té vỡ đầu, xúc phạm Thái tử điện hạ.”

Hắn gió chiều nào theo chiều ấy, đổ thừa trời tuyết làm đường đi trơn trượt, thái giám thì lười nhác, muốn cho thái y theo ta về Hầu phủ trị thương, hận không thể lập tức tiễn thứ xui xẻo là ta đi khuất mắt.

Ta gặp được Tam Vương phi ngoài cửa Đông Cung. Nàng nói Thái tử đã chuẩn bị kỹ càng, ai tới cũng không cho vào. Nàng đang định đi gọi Hoàng hậu hoặc Thái hậu tới thì thấy ta bước ra.

Dù mang tiếng là họ hàng xa, còn cùng nhau theo học Triều Huy Đường nhưng hai chúng ta chưa từng trò chuyện gì nhiều.

Vương phi đỡ ta lên kiệu của nàng, sai Thiện Nhi về Hầu phủ trước để chuẩn bị đồ ăn. Dù ta dùng mọi cách chối từ, nàng vẫn tự tay giúp ta lau chùi vết máu.

Nàng bày mưu tính kế cho ta, nếu như Tiếu Diễm có thể sống sót quay về thì phải thêm mắm dặm muối chuyện này cho hắn nghe.

Tam Vương phi giống phu quân nàng, sử dụng người nhà đang bị lưu đày của ta để chèn ép: “Chuyện uất ức như vậy, vợ chồng Văn đại nhân nghe xong thì đau lòng biết nhường nào.”

Mấy vị Hoàng tử, Vương phi này đều có danh hiền đức hạnh, ấy vậy mà toàn làm ra chuyện bẩn thỉu thấp hèn.

Ta không thể không nhớ tới Tiếu Diễm. Ác danh của hắn thiên hạ đều hay, nhưng hắn lại là người thuần lương nhất trên đời. Nhưng người hiền đức như vậy lại không biết sống chết ra sao.

Ai trong bọn họ cũng mang đầy ý nghĩa xấu xa, mưu tính xem Tiếu Diễm quay về thì phải làm sao, nếu không về thì làm như thế nào. Còn ta thì không dám nghĩ nhiều thêm một khắc.

Dù có nghĩ gì đi chăng nữa thì ruột gan ta đều đứt thành từng khúc.

Đến mùa xuân tháng hai thì có tin tức truyền về.

Lúc đó ta đang thử trà mới, hoảng hốt run tay làm ngã tách trà bạch ngọc khiến mảnh vụn vỡ văng ra đầy đất.

Thiện Nhi ra lệnh binh lính nói chậm lại, đừng dọa ta sợ.

“Phu nhân! Là tin chiến thắng! Có tin chiến thắng rồi! Hầu gia đại thắng quay về, thu phục được chín tòa thành Tây Nam đã đánh mất suốt ba triều đại!”

Cả người ta run lẩy bẩy, vừa cười vừa lau nước mắt, cứ tưởng như toàn bộ sức lực bị rút cạn đi trong nháy mắt. Ta chống đỡ không nổi, cơ thể bại liệt ngã ngồi xuống đất.

Thiện Nhi vội vàng ngồi xổm xuống, kiểm tra bàn tay ta bị mảnh vỡ cứa đứt. Ta vịn đầu vai nàng, phát hiện ra nàng cũng khóc vì vui mừng quá độ như ta: “Thiện Nhi, hắn còn sống, hắn vẫn còn sống...”

Giống như bầu trời đột nhiên tối sầm, chỉ thoáng chốc sau đó lại quang đãng trong xanh. Trời đất quay cuồng cũng chỉ đến thế là cùng.

Thái tử là người thăm hỏi trước tiên, đồng thời gửi tặng mấy chục rương quà cáp long trọng.

Hừ, hắn là cái thá gì chứ.

Bấy lâu nay ta vẫn còn sống ở Tây Uyển, ngoài cửa có nuôi một con chó gác cổng.

“Nhìn xem, ngay cả chó còn không thèm liếc nhìn nữa kìa.” Ta nói với Thiện Nhi, tay thì chỉ vào con chó vàng đang cố thoát khỏi xích sắt.

Thiện Nhi hỏi ta khi nào mới nói với Hầu gia chuyện đó.

Thật ra ta hãy còn do dự. Ta sợ không nói thì bản thân chịu thiệt, nói rồi thì sợ cả hai chúng ta sẽ trở thành quân cờ của Tam Hoàng tử. Nếu hắn vì chuyện này mà thù địch Thái tử thì khó tránh xảy ra chuyện lớn.

Im lặng một lúc lâu, ta bảo Thiện Nhi dặm thêm phấn lên thái dương, chỉ nói là: “Đi thôi, chắc là Hầu gia đã chầu Vua xong, sắp ra khỏi cung rồi đấy. Chúng ta chuẩn bị đón hắn về nhà trước đã.”

Có lẽ là vì quá nhớ nhung nên khi nhìn thấy hắn thì ta không xúc động nhiều lắm. Hoàng hôn lưu luyến, hắn ngồi trên ngựa cao, áo giáp chưa kịp thay mang đầy vết đao kiếm ngang dọc.

Hắn điều khiển ngựa ngừng lại bên cạnh rồi vươn tay về phía ta. Đôi mắt người xưa vẫn sáng đẹp như cũ, dẫu có thương tích cả người thì sức mạnh của hắn luôn lớn lao vô cùng.

Hắn nhấc tay một cái đã có thể ôm ta vào lòng, bàn tay to lớn bao vây trước người ta, cảm giác yên ổn quen thuộc bất ngờ ập tới.

Ta từng nghĩ ngợi rất nhiều lần, khi gặp lại nhau thì nên nói điều gì? Đến lúc đắm chìm trong nắng xuân, cùng hắn cưỡi ngựa dạo bước ven sông thì bỗng dưng cảm thấy không cần phải nói gì thêm nữa.

Ở nơi ngọn gió khởi nguồn, sắc xanh mơn mởn nhìn gần chẳng hay. (!)

Hắn dừng ngựa sau một sườn dốc cản gió, ôm ta xuống ngựa rồi lôi kéo ta nằm lên lớp cỏ khô ngắm nắng chiều cam đỏ.

Hắn tháo mũ giáp xuống, ở ngay bên má có một vết thương nhưng trông hắn có vẻ thanh thản lắm. Đôi tay hắn để ở sau đầu, mắt thì híp lại vì ánh mặt trời chói lóa.

Hắn nghiêng qua, mỉm cười nói với ta: “Đường Nhi, ta có một phó tướng. Hắn kể với ta là từng ăn bánh táo nàng tự tay làm ở quán trà. Hắn nói ăn ngon lắm, bản Hầu cũng muốn nếm thử xem sao.”

Ta cũng nghiêng người, định gối đầu lên ngực hắn mà sợ chạm phải miệng vết thương nào đó, thành ra ta chỉ dám gối đầu lên tay mình: “Bánh đó là Thiện Nhi làm chứ ta nào có biết.”

“Vậy thì đành uống canh vịt già với củ cải chua vậy. Tự nhiên bản Hầu hết muốn ăn mấy món bánh táo vớ vẩn kia nữa rồi.” Hắn đánh trống lảng thật nhanh.

Ta nói hắn là cỏ đầu tường hay sao mà xoay theo chiều gió nhanh thế? Đôi mắt đối diện ta chỉ chớp lấy một cái rồi tươi cười vui vẻ.

Ta hỏi hắn trên người có nhiều vết thương như vậy chắc là đau đớn lắm. Hàng mi dài dao động ngay lúc nắng chiều buông xuống, đôi mắt hắn chợt trở thành nguồn sáng rạng rỡ nhất trần đời: “Nếu ta nói lần này chỉ bị mấy chục con muỗi đốt thôi, nàng nhất định sẽ nói là ta lại lừa nàng.”

Ta ngồi dậy, không còn dáng vẻ khóc sướt mướt như vừa rồi nữa: “Không sợ, ngày mai ta đi mở y quán, phàm là thứ gì Hầu gia cần dùng đến thì ta đều bao được tất.”

Bụng ta đói meo kêu ồng ộc lên, Tiếu Diễm nghe thấy lập tức đứng dậy, ôm ta lên ngựa quay về phủ.

Hắn nói có được người vợ như ta là cũng là may mắn của hắn.

Ta vui đến nở hoa, khoe khoang nói: “Có Đường Nhi ở đây, sau này Hầu gia chỉ cần lo dưỡng lão thôi là được.”

“Cần gì phải dùng đến từ đó, bản Hầu mới có ba bảy...”

……….

(!) 清风起处, 草色遥看近却无/ Thanh phong khởi xử, thảo sắc dao khán cận khước vô/ Ở nơi gió nổi lên, sắc cỏ nhìn xa lại gần không thấy gì: Nửa câu sau trích đoạn từ "Sơ xuân tiểu vũ" của Hàn Dũ. Ý là nhìn từ xa thì thấy màu cỏ xanh, đến gần thì lại chẳng có gì.