Giữa lúc Đa Nhĩ Cổn đang say sưa ngắm nghía cánh tay nõn nà và khuôn mặt xinh đẹp của cô cháu dâu, bỗng có một tên cung nữ chạy vào bẩm bên ngoài có Hà Lạc Hội xin vào bái kiến.

Cổn biết có việc cơ mật, vội chạy ra Tây thư phòng và cho gọi vào.

Hội vừa gặp Cổn liền đem âm mưu hành thích Nhiếp chính vương của Hào Cách ra kể hết.
Cổn nghe xong vừa sợ vừa giận, lập tức sai Hội đem đám binh sĩ giữ cung lặng lẽ đến Túc vương phu, bắt tất cả bọn thân vương, bối lặc, đại thần có mặt hôm đó giải vây cung.
Nhiếp chính vương nhìn thấy Hào Cách, nhớ tới chuyện Cách kể xấu mình trước Thái Tông hoàng đế trước đây, lại càng căm tức, giận chưa thể đập cho Cách chết ngay được lúc này.

Cổn gầm lên như hổ rống, tức khắc cho lập hội đồng cùng Trịnh thân vương lên điện đốc cung thẩm vấn can phạm, có Hà Lạc Hội làm chứng.

Hào Cách thấy không thể chối cãi bèn chửi bới Cổn tàn tệ.

Nhiếp chính vương cả giận hạ lệnh phế Cách làm thứ dân, giam cầm vĩnh viễn trong ngục tối, Cổn thâu hồi vương phủ, một mặt ngầm đem cô cháu dâu xinh đẹp về giấu ở phủ mình, để ngày đêm hưởng dụng, không cho bất cứ ai biết chuyện.
Xong việc riêng, Cổn nghĩ tới việc công, đem bọn đại thần Á đạt lễ Thạc Thác và Ngô Đan ra kết tội chết, bắt đại học sĩ Cương Lâm hạ ngục, đồng thời chém đầu không biết bao nhiêu người trong đám triều thần, tịch thu tất cả quyến thuộc gia sản của họ đem về Duệ vương phủ.

Từ khi Hào Cách bị giam cấm trong ngục tối, Đa Nhĩ Cổn coi như đã nhổ được cái đinh trước mắt, ngày ngày tự do vào cung của Thái hậu để thủ lạc, chẳng còn phải kiêng kỵ gì nữa.

Thế Tổ hoàng đế lúc đó còn nhỏ tuổi lại ở riêng một cung làm sao mà biết được chuyện.

Duy chỉ có Phạm Văn Trình là nghe ngóng được đôi lời xì xào bên ngoài và liệu chừng rằng lòng người có ý không phục.
Lại nói vào hồi này, tại Minh triều, bọn Lý Tự Thành, Trương Hiền Trung đã dấy binh làm phản.
Thành kéo theo bọn dân đói ở Thiểm Tây, vét hết bọn dịch tốt trên đường, đông có tới 20 vạn người, ngựa chiếm cứ nhiều tỉnh như Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên.

Đầu mục của Thành có bọn Lão Hồi Hồi, Hoa Lý Nhã, Tả Kim Vương, Cái Thế Vương, Xạ Tháp Vương, Hoành Thiên Vương, Hổn Thập Vạn.

Quá Thiên Tinh, Cửu Điền Long, Thuận Thiện Vương, chia là 13 nhà, 73 doanh trại.
Quân Thành đi tới đâu, xông ngang tiến dọc tha hồ mặc sức; quân binh của Minh triều đầu hàng vô số kể.
Số là Lý Tự Thành có một ông cậu tên Cao Nghinh Tường cầm đầu đám binh mã này.

Tường vốn là tên mã tặc xuất thân rồi liên hiệp với tên đầu mục đám dân đói ở Diễn An phu tên Trương Hiền Trung, xưng hiệu Đại Lượng Vương.

Trường xưng là Sâm vương.

Còn Trung thì xưng Bát đại vương.
Nhưng về sau, Tường bị bọn quan binh giết chết.

Từ đó Thành nối hiệu Sâm vương của cậu, đem đại quân tiến vào ngã Tây An.

Trung không theo Thành mà lại kéo hùng binh sang ngã Tứ Xuyên.
Lý Tự Thành đánh mãi mới chiếm nổi Tây An, cướp được Vương cung Tần vương, một vị thân vương của nhà Minh, rồi đem Vương ra chém đầu.

Thành tự tiện lập lên nước Đại Thuận, cải niên hiệu là Vĩnh Xương.

Uy thế càng ngày càng lững lẫy, Thành kéo binh đánh phá Thái Nguyên, Đại Danh, Chán Định chiếm hết một dọc thành trì suốt vùng này.
Sùng Trinh hoàng đế nhà Minh được tin này, sợ quá, vội hạ chiếu trưng tập quân binh để bảo vệ kinh thành.

Buồn thay lúc đó, Minh triều bị tên gian thần Nguy Trung Hiền, chuyên quyền làm bậy.

Hoàng đế có muốn làm gì cũng chẳng được.

Vua thì bị ép, cùng khổ đến cực độ, mà trung thần thì bói cũng chẳng ra một người! Thật là bi đát hết chỗ nói! Tin tức này truyền tới tai Phạm Văn Trình, Trình bèn bảo Đa Nhĩ Cổn:
- Cơ hội có một, không nên bỏ mất.

Vương gia nên nhân lúc này đem quân đi thu phục Minh triều, lập đại công, thử hỏi ai chả phục!
Nhiếp chính vương nghe xong gật đầu khen phải.

Thế là Cổn vào báo tin cho thái hậu hay.


Văn thái hậu tuy lòng không muốn xa rời người tình, nhưng vì quốc gia đại sự, đành phải ưng chịu.
Thế là bà gọi bảo con trai là Thế Tổ hoàng đế chọn ngày lành, thăng điên Đốc cung, phong Đa Nhĩ Cổn là tướng quân thống lĩnh hai phần ba quân lực Mãn Châu, Mông Cổ phối hợp với quân của bọn Tam vương Hán quân Cung Thuận, Túc thuận công, tất cả không dưới mười vạn người ngựa.

Hoàng đế lại thưởng cho Cổn một cây tán, hai lá cờ độc kỳ lớn, rồi mũ da cáo đen, áo bào da con điêu, áo choàng ngoài cũng da con điêu, nệm ngồi da điêu, mũ mát, áo bào da trăn, áo choàng da trăn, nệm ngồi da trăn, yên ngựa bằng lông diều hâu, ngựa tốt loại thượng thặng, không thiếu một thứ gì.
Cổn vào cung từ biệt Thái hậu.

Lúc lâm hành, Cổn tâu với Thái hậu nếu cướp được Trung nguyên, sẽ đón bà vào quan nội cùng hưởng cảnh phú quý, phồn hoa của Trung Quốc.
Giờ Ngọ đúng ba khắc, tiếng pháo nổ vang trời nơi thành ngoại, Đại tướng quân Đa Nhĩ Cổn nhảy lên yên ngựa, trước mặt dựng cao tám cây cờ Đại độc kỳ, rồi đại binh ùn ùn kéo đi như nước chảy về phía Sơn Hải quan.

Khi ra tới biên cương, Cổn thân phái Đa Đạc, A Tế Cách, Khổng Hữu Đức, Cảnh Trọng Minh, Thượng Khả Thiện cùng vương tử của Triều Tiên là Lý Xí, người nào người nấy đem đại binh của mình tiến về phía trước còn chính.

Cổn thống lĩnh nha binh đồn trú tại các miền phụ cận Quảng Ninh và vùng ông Hậu nghe ngóng tin tức.
Giữa lúc đang điều binh khiển tướng như vậy, bỗng tiền quân A Tế Cách đưa từ ngoài vào một tên quan sai của Minh triều.

Tên quan sai này thấy Đa Nhĩ Cổn, vội quỳ xuống, miệng thưa:
- Bình tây bá Ngô Tam Quế có khẩn thư, đặc sai phó tướng Diệp Vũ Chung đưa tên Đại tướng quân khai khán.
Tức thì có thị vệ quan tiếp lấy, đưa lên cho Cổn.

Cổn mở xem thấy thư viết: "Sùng Trinh hoàng đế bị treo cổ chết ở Môi Sơn.

Lý Tự Thành đánh phá thành Bắc Kinh.

Đại tướng quân phát binh cứu Trung Quốc thoát khỏi đại nạn"
Cổn đọc xong, bất giác ngạc nhiên nói:
- Tên Lý Tự Thành quả lợi hại thật! Chẳng mấy ngày mà hắn đã gây ra được chuyện lớn tày trời.
Cổn lại hỏi Diệp Vũ Chung xem Sùng Trinh đế bị treo cổ chết như thế nào?
Diệp phó tướng bỗng nước mắt chảy ròng, mãi sau mới trả lời được:
- Thật đáng thương cho vị hoàng đế phải chết một cách oan uổng Văn võ khắp triều đều là một lũ gian thần: Quân của Lý tặc đến chân thành rồi mà bách tính Bắc Kinh vẫn chưa hề biết tí gì.

Mãi tới ngày 17 tháng 3, khi lâm triều nhà vua hỏi: bên ngoài thế giặc ra sao, thì bá quan văn võ chỉ còn có chảy nước mắt tỏ nỗi lo sợ mà thôi.

Một lát sau có tin từ Ngọ môn báo vào nói quân của Lý Tự Thành đang vây đánh khắp Cửu môn (9 cửa thành).

Bọn đại thần vừa nghe qua, chẳng hỏi tới hoàng đế nữa, ai nấy chuồn vội ra khỏi điện.

Sùng Trinh hoàng đế thấy vậy, thở dài, thoái trào về cung, ôm lấy hoàng hậu khóc rống lên.

Lúc đó có tên Tổng quản thái giám thấy hoàng đế khóc lóc thê thảm, bất giác xúc động, bèn kêu gọi bọn thái giám trong cung tất cả khoảng hơn trăm, người nào cũng vác binh khí chạy ra, chống giữ hoàng thành.

Qua ngày 18, bên ngoài đánh phá kịch liệt, bên trong có một tên thái giám tên gọi Đỗ Huân thấy thế nguy bỏ trốn ra đầu hàng rồi đem mọi việc trong thành nhất nhất kể hết cho Thành nghe.

Thành bèn dùng dây cho Huân leo trở lại thành ngay đêm đó vào cung Sùng Trinh hoàng đế, xin ngài nhường ngôi cho y.

Sùng Trình hoàng đế bắt Đỗ Huân giam lại.

Chiều tối hôm đó, thái giám Tào Hoá Thuần lén mở cửa Chương Nghi môn, thế là quân giặc ùn ùn kéo vào, gặp người là chém, thấy nhà là đốt, kinh thành ánh lửa rực trời, tiếng người kêu khóc dậy đất.

Sùng Trinh hoàng đế hạ lệnh đóng chặt cửa thành.

Thương thay cho ngài, một mình ra khỏi cửa cung, chạy lên núi Vạn tuế sơn, thấy binh lửa ngụt trời, bèn thở vắn than dài: "Thế là chết cả đám dân vô tội rồi!".

Than xong, ngài giỏ mấy giọt nước mắt bi thương, quay về Kiều Thanh cung.

Ngài lấy bút sơn viết một đạo thượng dụ, giao phó cho Thành quốc công Chu Thuần Thần và tất cả đề đốc nội ngoại chư quân, phò trợ Đông Cung.

Viết xong, ngài cho mời hoàng hậu tới.

Chỉ trong nháy mắt, một số đông cung nữ, cả hoàng hậu và Viên quý phi đều có mặt ngồi vây quanh lấy hoàng đế.

Ngài sai bày tiệc rượu, uống liền ba chén rồi quay lại bảo hoàng hậu:
- Việc lớn hỏng hết rồi!

Hoàng đế vừa nói xong thì đã nghe đám cung nữ oà lên khóc thảm thiết.

Hoàng hậu cũng lấy vạt áo lau má lệ, nói giọng trách móc: "Thần thiếp phụng sự bệ hạ đã mười tám năm, nhiều lẩn khuyên can mà chẳng thèm nghe cho nên mới có ngày nay".

Sùng Trinh hoàng đế cũng chẳng buồn nói nhiều, chỉ cho gọi Thái tử Vĩnh vương, Dịch vương, rồi cầm tay hai con nói được có một câu: Trốn đi.

Lại dặn thái giám đem hai thái tử ra khỏi cung ký thác cho bên ngoài hai nhà họ Chân và họ Điền nuôi dưỡng.

Một lát bọn cung nữ vào báo: Hoàng hậu thắt cổ chết.

Sùng Trinh hoàng đế chạy vội lại xem, thì hậu đã tắt thở! Ngài chỉ nói được có một tiếng: Tốt! Công chúa ngồi bên cạnh oà khóc.

Công chúa năm đó mới mười lăm, vẻ đẹp chim sa cá lặn.

Ngài thấy lúc nàng không đề phóng, bèn tuốt bội đao một tay che khuất mặt, một tay vung đao chém tới Công chúa trúng đao ngã quỵ trong vũng máu, vai bên phải mất hẳn.

Nàng lăn lộn gào khóc.

Hoàng đế gạt lệ nói: "Ai khiến mày sinh vào cửa vua chúa làm gì?".

Nói xong ngài quay đầu lại, thấy Viên quý phi đang ngồi bên cạnh liền hỏi: "Tại sao ngươi chưa chết đi?".

Viên quý phi nghe xong, liền quỳ lạy hoàng đế mấy lạy rồi cởi dây lưng treo cổ trước mặt ngài.

Chiếc dây lưng bỗng đứt, nàng hồi tỉnh trở lại.

Hoàng đế cầm ngược con dao dùng hết sức bình sinh chém tới tấp vào người nàng đến mấy đao mới chết.

Ngài, thu đao rồi cùng bọn thái giám chạy tới cửa Đông Hoa môn.

Cả bọn bị đám binh sĩ chăn lại.

Ngài đành quay sang cửa Tề Hoa môn tìm tới nhà Châu Thuần Thần.

Đoàn người bị bọn lính canh cửa không cho vào.

Ngài lại chạy vội qua cửa An Định môn.

Binh sĩ dàn khắp mặt thành.

Cửa thành đông như kiến không cách gì qua được nên ngài đành thở dài quay về cung.

Lúc đó Sùng Trinh hoàng đế mặc áo bào xanh chạy qua chạy lại nên chẳng ai nhận ra được.

Qua ngày thứ mười chín, vào lúc hừng sáng, nội thành cũng bị giặc phá nốt.

Hoàng đế lặng lẽ một mình chạy lên núi Môi Sơn ngồi xuống thềm đình Thọ Hoàng.

Chung quanh tiếng reo hò chém giết vang dậy.

Ngài đưa con mắt lạc thần nhìn quanh một vòng, thở dài sườn sượt.


Rồi ngài giơ tay cầm cây bút son để trên mặt án thư viết mấy chữ vào vạt áo xong rồi cởi giải áo treo cổ chết ngay trong thành…
Sùng Trinh hoàng đế đã chết trên núi Môi Sơn.

Từ bên ngoài Lý Tự Thành đánh thốc vào cung.

Thái giám Vương Thừa Ân lúc đó chạy khắp nơi tìm kiếm nhà vua.

Khi lên Môi Sơn vào đình Thọ Hoàng hắn mới thấy xác nhà vua treo lủng lẳng trên hậu của, đầu tóc rũ rượi, chân trái để trần, chân phải còn lại chiếc giầy đỏ.

Nhìn tới vạt áo hắn thấy mấy dòng chữ như sau:
"Trẫm lên ngôí vua đã mười bảy năm trời.

Bọn nghịch tặc bức bách kinh sư.

Trẫm tuy đức bạc tài hèn nên phạm tội với trời, nhưng thực ra tội lỗi đều do bọn bầy tôi làm trẫm lầm lạc.

Trẫm chết đi không mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên dưới suối vàng nữa.

Hãy lột hết mũ mãng của trẫm đi! Hãy lấy tóc che mặt cho trẫm.

Hãy để mặc cho giặc băm nát thây trẫm xin chớ giết hại một người dân nào".
Vương Thừa Ân đọc xong di chiếu, không khỏi rơi lệ thương xót.

Ân quỳ xuống lạy thây ma Sùng Trinh hoàng đế tám lạy rồi lẩm nhẩm khấn khứa:
- Đức vạn tuế ngài ở cõi âm xin hãy chậm chút, cho nô tài theo với!
Khấn xong, Ân cũng cởi thắt lưng treo cổ lủng lẳng dưới chân Sùng Trinh hoàng đế.
Nói thêm những điều Diệp Vũ Ung không biết nên không kể được ra.
- Lúc thành bị phá, Sùng Trinh hoàng đế thăng điện không thấy bóng một tên thái giám.

Ngài bèn xuống điện tự tay đánh chuông, đánh mãi vẫn chẳng thấy một tên quan lớn quan nhỏ nào tới.

Nhưng lúc Lý Tự Thành vào cung, leo lên ngai vàng ngồi chễm chệ trong điện Kim Loan, thì đánh chuông trống vừa kêu đã thấy Thành quốc công Chu Thuần Thần cầm đầu văn võ đại thần toàn triều kéo vào quỳ mọp dưới đất lạy lấy lạy để, miệng quai ra hô lớn:
- Hoàng đế vạn tuế!
Lý Tự Thành tra vấn thì chỉ có vài vị đại thần như Phạm Cảnh Văn Nghê, Nguyễn Lộ là còn có lòng trung nghĩa.

Lại hỏi tới Sùng Trinh hoàng đế, thì bọn đại thần ngơ ngác nhìn nhau, chẳng biết vua đâu.

Về sau, phát giác thây nhà vua trên núi Môi Sơn, Thành hỏi tên tiểu thái giám trông coi đình Thọ Hoàng thì hắn kể lại đầy đủ chi tiết lúc nhà vua lâm tử với Vương Thừa Ân tuẫn tiết chết theo.

Thành sai quân sĩ lấy cánh cửa trong cung đặt xác hoàng đế tên khiêng đi, dùng chiếc áo quan bằng gỗ cây liễu tẩm liệm qua loa rồi mang ra ngoài Đông Hoa môn bỏ trong kho chứa cỏ, chỉ có ba, bốn tên thái giám già trông coi hàng ngày.
Lý Tự Thành ở lại trong cung, hàng ngày có văn võ bá quan triều bái, chẳng thấy kẻ nào tới lạy trước quan tài vua Minh.

Bọn Trần Diễn, Nguy Tảo Đức, Trương Nhược Kỳ, Lương Triệu Dương, Dương Quan Quang, Châu Khuê, cả một lũ gian thần đều quay lại xu phụng nịnh bợ Lý Tự Thành.

Cả cha Ngô Tam Quế là Đô chỉ huy Ngô Tương cũng đầu hàng họ Lý.

Ngô Tam Quế có một ái thiếp tên gọi là Trần Viên Viên, vốn là con đào hát trong nhà ngoại thích Điền Uyển, có sắc đẹp hoa nhường nguyệt thẹn.

Một hôm Quế tới uổng rượu tại nhà họ Điền trông thấy liền xiêu lòng, bèn xin Điền Uyển đem về, Quế sủng ái Trần thị hết mức ngày đêm ôm ấp.

Quế được ý chỉ của Sùng Trinh hoàng đế đem quân đồn trú tai Sơn hải quan.

Y sợ da thịt của người tình quá non mỏng không chịu nổi phong sương nơi quan ngoại nên gửi nàng lại nhà cha mình.

Khi Lý Tự Thành đánh Bắc Kinh, Ngô Tam Quế được phong Bình Tây bá, đem quân hồi kinh hộ giá.
Vừa về tới Phong Nhuận, Quế đã được tin kinh thành thất hãm.

Quế hỏi tin được biết cha đã hàng giặc.

Hỏi đến Trần Viên Viên, thì nàng đã bị tên tướng giặc Lưu Tôn Mẫn cướp đi và đem nàng dâng cho Lý Tự Thành hưởng thụ.

Được những tin động trời ấy, thử hỏi làm sao Quế chịu nổi? Thế là một mặt Quế đem đại binh ngày đêm đánh thốc về kinh, một mặt sai phó tướng Diệp Vũ Chung tới quan ngoại nhờ cứu giúp.
Diệp Vũ Chung kể hết mọi sự xong, Đa Nhĩ Cổn còn hỏi đi hỏi lại nhiều điều chưa rõ ràng rồi mới suy tính kỹ lưỡng.
Sau đó Cổn lập tức truyền lệnh huy động binh mã, dựng một cây cờ lớn trên viết bốn chữ "Đoàn quân nhân nghĩa" diễu võ dương oai, đánh thẳng vào Bắc Kinh, có quân của Bình Tây bá dẫn đường.
Lý Tự Thành nghe tin quân Mãn Thanh kéo tới, hoảng quá bắt cóc thái tử của Minh triều và hai vị Vương gia rồi bỏ chạy về hướng tây.

Ngô Tam Quế đuổi đánh, giết được cha y là Ngô Tương.

Lúc hỏi tới Trần thị, Quế mới hay nàng đã bị Sấm Vương Thành đem đi mất.

Quế đuổi theo.

Đến giữa đường, bắt gặp Trần thị đang một mình thui thủi.

Thật là vui buồn lẫn lộn! Quế lấy lại được người đẹp, chẳng còn bụng dạ nào mà truy kích nữa, bèn quay về thành Bắc Kinh.
Đa Nhĩ Cổn vào cung nhà Minh, chẳng cần làm khách, nhảy lên ngai vàng trong điện Anh Võ, để cho trăm quan triều hạ.
Cổn một mặt cho chiếm giữ các cung điện một mặt tự tay viết tờ sớ tâu về Thịnh Kinh, sai Phụ Quốc công Đồn Tề Khắc Hoà Thác, và Cố sơn ngạch chân Hà Lạc Hội đón rước vào Bắc Kinh.
Cổn lại phái hàng thần của Minh triều là Kim Chi Tuấn thiết lập vô số hành cung, dọc hai bên đường chạy từ Sơn Hải quan thẳng tới Bắc Kinh.
Tới ngày hai mươi tháng chín, Duệ thân vương được tin Thuận Trị hoàng đế đã cung thỉnh Thái hậu tiến vào thành Bắc Kinh.

Đa Nhĩ Cổn vội triệu tập văn võ đại thần khắp triều mũ áo chỉnh tề, xuất thành xa chín dặm, cung tiếp thánh giá.
Bỗng người ta nghe chín tiếng đại bác nổ rền, rồi ở phía trước, chuông trống, nghi tượng, cờ rồng xe phượng, bọn thị tùng áo lông màu lam chia đôi hàng tả hữu, hộ tống long xa, oai vệ kéo tới.

Trong long xa là Thái hậu má còn mịn, tóc còn xanh, bế trong lòng chú Trời con nhỏ xíu.

Chiếc long xa từ từ lăn bánh, từ Vĩnh Định môn tiến vào Đại Thanh môn.

Hai bên đường, bách tính nhà nào nhà nấy bày hương án đón tiếp.
Từ trong các cửa sổ, các ngách tường, đám dân đen nghé mắt nhìn trộm.

Xa giá tiến vào Tử Cấm thành.

Văn võ đại thần nhất tề sui ra, chỉ còn lại một mình Nhiếp chính vương theo giá vào cung.

Thuận Trị Thái hậu vào Từ Ninh cung, nghỉ ngơi một lát rồi truyền chỉ cho Đa Nhĩ Cổn vào.
Hai người tình cũ xa cách đã lâu, nay được tái hội tự nhiên có một phen nghiêng trời lệch đất, tha hồ cho tình yêu lai láng.

Đôi bên trò truyện mãi khuya, Cổn mới lui ra trở về dinh mình.

Lúc đó Tiểu Ngọc Nhi, phúc tấn vợ Hoà Cách cũng đã theo gót vào Bắc Kinh.

Cổn trở về phủ cười đùa trò chuyện với vợ một lát, rồi qua quấy phá hai chục cô thị thiếp một hồi, cuối cùng lẻn vào phòng cô cháu dâu nưng nịu mân mê bàn tay ngọc.
Vợ Cổn, nàng Tiểu Ngọc Nhi từ khi lấy chồng và biết chồng mình có tình với chị ruột mình, thì lòng lúc nào cũng ngầm ỹ oán giận, không cách nào nguôi.

Đôi ba lần tức quá nàng đã định chạy vào cung để cãi nhau với chị, đánh ghen với chị, nhưng lại nghĩ chị mình nay đã làm tới Thái hậu, thế lực vượt xa mình, thì làm sao mà chống lại, đành lại phải câm nhịn.
Cổn mấy hôm đó vì trong cung bận nhiều việc, đành phải ở lại mấy ngày đêm.

Tiểu Ngọc Nhi máu ghen lại càng sôi lên.
Thuận Trị hoàng đế chọn ngày mồng một tháng mười để đăng cơ.

Bởi vậy ngày hai mươi sáu tháng chín ngài hạ dụ cho đại tiểu quần thần mặc tang phục để tang Sùng Trinh hoàng đế ba ngày.

Tới ngày mồng một, toàn triều thay đổi cát phục.
Hoàng đế thăng triều, ngồi giữa điện Anh Võ Văn.


Võ trăm quan nhất tề quỳ lạy tung hô vạn tuế ba lần.

Sau đó nhà vua hạ luôn ba đạo dụ: Đạo thứ nhất là đem Minh triều cải đổi ra thành Đại Thanh, đại xá thiên hạ, miễn thuế cả nước một năm.

Đạo thứ nhì là hạ lệnh chơ thần dân trong thiên hạ phái nhất luật cắt tóc trong thời hạn mười ngày.

Đạo thứ ba là phong A Tế Cách làm Tĩnh viễn đại tướng quân, hợp binh lại với Ngô Tam Quế.

Thượng Khả Hi từ biên viễn Đại đồng lại hợp với quân Mông Cổ, tiến vào Du lâm Diên An đánh mặt sau Thiểm Tây để tiêu diệt bọn Lý Tự Thành, lại phong Đa Đạc làm Định quốc đại tướng quân xuống miền Giang Nam đi thu phục thiên hạ của nhà Minh.
Chỉ nói riêng đạo dụ cắt tóc cũng đã gây chết chóc cho không biết bao trung thần nghĩa sĩ.

Nhưng thôi, chẳng cần nhắc tới cho thêm đau lòng, chỉ cần nói chuyện Đa Nhĩ Cổn, sau khi phân phát các lộ binh mã đi rồi, ngày đêm nằm lì trong cung cấm cùng Thái hậu thủ lạc.

Các bà tấn, vợ các thân vương, hàng ngày cũng phải luân phiên vào cung để chúc mừng.

Duy chỉ có Tiểu Ngọc Nhi vì ghen tức với chị đến tận xương tuỷ.

nhất định không thèm diện kiến.
Lần này thấy chồng vào cung ở lỳ trong đó đến mấy ngày không về, nàng điên lên, cưỡi xe xông thẳng vào Từ Ninh cung, đầu không chải, quần áo không thay.

Bọn thái giám và cung nữ thấy nàng có vẻ hung dữ bèn chặn lại.

Đang ghen tức uất hận, lại không có chỗ tiết, hơn nữa còn bị bọn người ngăn cản, nàng bèn đứng luôn ngoài cung chỉ trời vạch đất, vung tay múa chân lớn tiếng chửi bới om sòm, một lời kêu Đa Nhĩ Cổn, hai lời kêu Nhiếp chính vương.

Nàng chửi bới chồng một lúc lâu rồi quay sang vạch hết chuyện tư tình của Cổn với Thái hậu ra cho mọi người biết, khiến bọn thái giám cũng như cung nữ hoảng hồn bạt vía, bịt tai chẳng dám nghe.

Cuối cùng vài cung nữ đành phải tới dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ rồi mời nàng vào ngồi trong Tây thư phòng, mặt khác sai người chạy vào trong thông báo cho Nhiếp chính vương biết.
Lát sau, bọn cung nữ truyền lời ra, nói mời nàng về trước và báo Vương gia đêm nay thế nào cũng về phủ.

Tiểu Ngọc Nhi nghe xong, chẳng biết làm gì hơn, đành lủi thủi lên xe trở về.
Trời gần tối, Đa Nhĩ Cổn quả nhiên về nhà.

Đa Nhĩ Cổn tuyệt nhiên chẳng đả động tới chuyện xảy ra lúc ban ngày.
Hai vợ chồng ăn xong bữa tối rồi cùng lên giường nằm nghỉ tại phòng Ngọc Nhi.

Bọn thị thiếp thấy vậy rất lấy làm lạ.
Qua ngày hôm sau, vào lúc sáng sóm tinh sương, cả bọn kéo nhau tới đợi trước phòng Ngọc Nhi thì thấy nàng nằm cứng đơ trên giường, thất khiếu đều chảy máu.

Thì ra nàng đã chết từ lúc nào!
Cả bọn hoảng hồn bạt vía và không cần phải suy nghĩ cũng biết được ai là thủ phạm, nhưng không đứa nào dám kêu.

Cổn coi việc xảy ra như không có gì đáng để ý, thủng thẳng cho gọi quan sai tới mua sắm quan quách khâm liệm rồi làm lễ chôn cất.
Sau vài ngày tang ma, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn lại vào cung như cũ, có lần nằm luôn tới mười ngày chẳng thấy ra ngoài.

Chuyện tư tình giữa chị dâu em chồng từ khi Tiểu Ngọc Nhi kể xấu tại cung môn không còn ai là không biết.
Tiếng đồn chẳng đẹp này tới tai Thuận Trị hoàng đế.

Nhà vua tuy nói là còn nhỏ tuổi nhưng cũng đã cảm thấy đôi phần nhục nhã, khó chịu.
Không ngờ lúc đó có một vị Lễ bộ thượng thư tên gọi Tiềm Khiêm Ích sớm đã biết tâm bịnh của Nhiếp chính vương và của Thuận Trị hoàng đế.

Ông nghĩ thế nào đó, bèn dâng một tờ sớ, ý rằng:
"Hoàng thái hậu hiện đang xuân, sống một mình trong cung cấm, ắt hẳn cam chịu nhiều điều thương cảm.

Nhiếp chính vương có công cao vị cả, lại chẳng may đoạn huyền.

Vậy chi bằng xin Thái hậu hạ giá "(lấy xuống) Nhiếp chính vương khiến có thể cởi bỏ được đại công của hoàng thúc".
Đa Nhĩ Cổn đọc xong bản sớ, bất giác lòng như hoa nở.

Ông bèn chạy vào cung đưa cho Thái hậu rồi bàn tính với nhau.
Thái hậu tuy cảm thấy xấu hổ, nhưng lại cười bảo Cổn:
- Ta không biết đâu đấy! Người bàn tính với bọn chúng xem sao.
Cổn quay về phủ liền cho gọi Tiềm Khiêm Ích tới.

Hai người bàn đi tính lại với nhau suốt cả đêm.

Qua ngày hôm sau, Ích vào triều, đem ý mình tâu lên cho hoàng thượng rõ.
Thuận Trị hoàng đế tất nhiên chuẩn tấu.

Ngài hạ một đạo dụ xuống cho thần dân.

Đạo dụ nói:
"Trẫm lấy tuổi trẻ lên ngôi, đặt vạc nơi Yên Kinh, biểu chính ở muôn phương, quét sạch bốn bể, dốc lòng đạo đức, cố làm cho nước nhà thịnh vượng.

May nhờ được Thánh mẫu hoàng Thái hậu hiền đức bên trong, Nhiếp chính vương hoàng thúc khuông phò bên ngoài, một lòng một dạ, trẫm mới có cái cơ nghiệp như ngày nay.

Trẫm nhớ lại Hoàng Thái hậu từ khi Hoàng khảo về trời một niềm vịn râu rồng mà trông ngóng, ắt không khỏi thương tâm, lại ngậm mật gấu để dạy con, không mở miệng cười.

May nhờ có Nhiếp chính vương nên trẫm phó thác được trách nhiệm, gởi gắm được tâm lòng, lại nhuần thấm được từ ân vâng theo thêm ý đẹp.

Trẫm nghĩ tới khi vương đuổi hươu công thành đem xích đởm tỏ lòng trung, lúc tung ứng vọng trọng, đem đan tâm mà phò trợ, hoặc khi vương mang kim đằng dẹp loạn, có công lập cơ công phụ trọng, lúc đem Thiệt Khoán báo ơn, quên cái gián của Khâu tẩu năm xưa.

Trẫm lại cũng muôn làm vui nơi cung lạnh, cố đem cởi bỏ cảnh bi thương của con hạc lạc đàn và tìm cách gây mừng nơi cụng vắng, để khỏi nghe hát khúc của con loan cô độc.

Tuy nói rằng cầm kính giữ lễ nhưng chấp kinh vẫn phái tòng quyền.
Thông biến kinh quyền chẳng qua để giữ tròn đạo vợ nghĩa chồng để gây vui cho bực thân trưởng bên trên.

Ôi thôi! Lễ Kinh đều có đủ tuy chẳng nói cái điều tái giá nhưng gia pháp vẫn phải theo dù không có cái luật trùng hôn, nhưng thánh nhân đâu có ngại chi tới điều đạt tiết.

Kẻ đại hiếu rất quý ở chỗ thuận theo đấng thân, đấy là nỗi khổ tâm nhất của trẫm, trẫm mong được thần dân trong thiên hạ lượng xét chung.

Nghi điều của buổi đại hôn, trẫm giao cho Lễ bộ bàn định và tâu trình để trẫm cho thi chiếu.

Khâm thử"..