Vị võ trạng nguyên này làm nhóm người Ngao Thịnh cười nghiêng ngả một phen, sau Ngao Thịnh lại tiếp tục thăm dò công phu ba người còn lại. Cả ba võ công đều không tồi, chỉ tiếc tính tình dịu hiền, không có nhiều khí phách… Tuy làm võ tướng, luôn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh là điều tốt, nhưng cũng không thể quá mức vâng lời. Giống như năm đó có Tề Diệc, bây giờ lại có Tống Hiểu, Vương Hi… Mỗi người đều có ưu điểm riêng, có khí phách, có cá tính, có mưu lược…Võ tướng, đầu tiên phải khiến người khác nhìn vào thấy mình phi thường hơn người, xem ra trong bốn người, chỉ mỗi trạng nguyên Vương Trung Nghĩa có thể xem như …khác thường, nhưng tên ngốc tử này phải dùng gã thế nào mới đúng đây!?

Nghĩ nghĩ, Ngao Thịnh liền xoay mặt nhìn Tương Thanh, thấy y vừa uống trà vừa xem bài thi của những văn quan kia, tựa hồ rất vừa lòng.

Ngao Thịnh thoáng giật mình, vươn người qua nhìn, nét chữ của bài thi trong tay Tương Thanh mạnh mẽ, phóng khoáng, mềm dẻo như liễu rũ lại sinh động tự nhiên, thật sự rất đẹp.

“Đây là bài thi của ai?” Ngao Thịnh vội hỏi.

Tương Thanh lật bài thi lại cho Ngao Thịnh nhìm xem tên họ, bên trên đề ba chữ Diệp Vô Quy, là đệ tứ bảng.

Bài thi do Quý Tư và Mặc Tây Nhung cùng nhau duyệt, bên cạnh bài thi Quý Tư rành mạch phê chú — Có tài văn chương, học rộng hiểu cao, là một nhân tài, đáng danh trạng nguyên gia! Bài thi được Quý Tư khen ngợi nhiều như thế đương nhiên là của trạng nguyên.

Tương Thanh lại chỉ tay vào dòng chú bình của Mặc Tây Nhung, chỉ thấy một dòng bút cứng rắn phán —— có tài bát đẩu, nhìn xa hiểu rộng, chỉ tiếc quá mức cực đoan, chỉ có thể xếp hàng thứ bảy.

“Sao?” Ngao Thịnh khẽ giật mình, hiếm khi lại thấy Quý Tư và Mặc Tây Nhung lại bất đồng quan điểm đến thế, liền hỏi Tương Thanh: “Chỗ khác nhau của hai người là ở đâu?”

“Ở đây” Tương Thanh chỉ vào nơi Quý Tư dùng mực đỏ khoanh tròn, bên trong là năm chữ —— ch chiến, đế thân chiến!

Ngao Thịnh cau mày, khẽ trao đổi ánh nhìn với Tương Thanh.

Đề thi văn lần này hỏi về chính sách trị quốc đối với ngoại tộc của Thịnh Thanh. Bốn bài thi chia làm hai quan điểm, một là chủ chiến, một là chủ hòa. Quan điểm của Trạng nguyên Uông Càn Khôn và đệ tứ bảng Diệp Vô Quy đối với ngoại tộc đều là chủ chiến, nhưng Uông Càn Khôn viết có phần hàm súc hơn một tí, chủ yếu nói đến ý nghĩa cùng sự tất yếu của việc chủ chiến, trong khi Diệp Vô Quy lại hành văn sắc bén, chủ trương Ngao Thịnh nên tự mình tác chiến, bình định tứ phương nhất thống hoa di, làm một chinh chiến đế vương.

Ngao Thịnh mỉm cười, xem ra Quý Tư cũng hy vọng hắn có thể làm một chinh chiến hoàng đế, còn Mặc Tây Nhung tuy cũng ủng hộ chủ chiến, nhưng không mong hoàng đế ngự giá thân chinh.

Bỏ bài thi xuống, Ngao Thịnh nhìn bảng nhãn và thám hoa hai bên, phân phó “Uông Càn Khôn, Diệp Vô Quy…Còn có, Vương Trung Nghĩa, ba người các khanh ở lại, còn những vị hiền tài khác hãy đến gặp thừa tướng Quý Tư.”

“Tuân chỉ.” Những người không có tên đều tán đi.

Ngao Thịnh đứng lên, hỏi Uông Càn Khôn và Diệp Vô Quy: “Hai khanh đều chủ trương chủ chiến?”

Uông Càn Khôn và Diệp Vô Quy đá mắt nhìn nhau…nhưng vì chiều cao của hai người lại quá chênh lệch nên không thể nhìn thấy đối phương, cuối cùng Uông Càn Khôn phải cúi đầu, Diệp Vô Quy thì ngẩng đầu, hai người mới có thể rơi vào tầm mắt của nhau, không cần phải nói là có bao nhiêu không được tự nhiên.

Ngao Thịnh cố nhịn cười: “Trẫm cũng có ý chủ chiến.”

Uông Càn Khôn và Diệp Vô Quy nghe thấy một câu này của Ngao Thịnh, hai mắt đều sáng ngời nhưng lại chợt nghe thấy Ngao Thịnh bồi thêm một câu: “Bất quá có một việc trẫm không rõ…Hai khanh đều có quan điểm chủ chiến, Diệp Vô Quy chủ trương trẫm thân chiến, vậy còn Uông Càn Khôn? Trạng nguyên gia cho rằng, ngự giá thân chinh là điều không thể sao?”

Uông Càn Khôn nói: “Hoàng thượng, ngự giá thân chinh là chính đạo!”

“Thế sao?” Ngao Thịnh vui vẻ hẳn lên: “Thế tại sao khanh lại không đề cập trong bài thi?”

“Hồi bẩm Hoàng thượng.” Uông Càn Khôn đáp: “Từ lúc Hoàng thượng đăng cơ đến nay đã ba năm, chưa cùng chư quốc phát sinh xung đột gì lớn, nhưng Hoàng thượng đối ngoại tộc đều luôn cường ngạnh, nên đệ tử mạo muội cho rằng Hoàng thượng tất nhiên muốn chủ chiến. Nhưng người phê chấm bài thi chưa hẳn là Hoàng thượng mà là tả hữu thừa tướng, đệ tử không dám khẳng định nhị vị cũng có ý chủ chiến hay không. Nếu ý tưởng ngự giá thân chinh này tùy tiện viết ra rất dễ khiến người khác nghĩ rằng đây là suy nghĩ của trẻ con không biết chừng mực, nên đệ tử đành phải tránh không viết ra.” Nói xong, suy nghĩ, lại tiếp tục: “Đệ tử và Diệp huynh cùng ở trọ một khách điếm, lúc thông cáo kim bảng đề danh, bên cạnh còn dán kèm theo bài thi của những người đứng đầu, lúc ấy đệ tự may mắn được nhìn thấy bài thi của Diệp huynh, nói thật, nếu luận chân tài thực học, đệ tử không dám so sánh cùng Diệp huynh.

Ngao Thịnh nghe xong, ra chiều tán thành, gật gật đầu: “Giỏi lắm, không chỉ biết nhìn xa trông rộng còn biết đoán lòng người.” Vừa nói, vừa liếc nhìn Diệp Vô Quy: “Khanh nên học hỏi cách đoán biết lòng người này của trạng nguyên gia.”

Diệp Vô Quy mỉm cười: “Hoàng thượng, đệ tử thật rất muốn học, nhưng trời sinh tính ngay thẳng không thể chuyển biến, chỉ biết tiến không biết lui là thiên tính của đệ tử, thật khó để đi ngược lại. Nhưng theo đệ tử thấy, đây chính là tác phong của mỗi người. Đệ tử chỉ biết dùng tài năng, dũng cảm tiến tới trong khi Uông huynh lại biết đối nhân xử thế tinh tế, có thể thu phóng tự nhiên… Chính sự thay đổi bất ngờ, có đôi khi cần lui, có đôi khi phải tiến, toàn bộ tùy Hoàng thượng định đoạt thời điểm nào thì cần phương pháp gì!”

“Phải.” Ngao Thịnh vừa lòng gật gù: “Trẫm rất tán thành, hai khanh ai cũng có lý lẽ riêng.” Nói xong lại quay sang nhìn Vương Trung Nghĩa cứ hết liếc đông lại ngó tây kia: “Vương Trung Nghĩa, khanh cảm thấy thế nào?”

Vương Trung Nghĩa có chút khó hiểu nhìn Ngao Thịnh, lại đần mặt nhìn Tương Thanh, hỏi: “Cảm thấy cái gì? Các ông cứ huyên thuyên nói lung tung hết cả lên, ta quê mùa nghe không hiểu.”

Tương Thanh hỏi: “Hiện giờ ngoại tộc như hổ rình mồi, nhưng Thịnh Thanh vừa mới thành lập, căn cơ chưa ổn, nếu ngươi là tướng quân, sẽ chủ trương chủ động mang quân tiêu diệt ngoại tộc hay sẽ giảng hòa cùng bọn chúng, chờ đến khi nào thực lực vững vàng mới quyết một phen sống chết với chúng?”

Vương Trung Nghĩa trừng mắt nhìn: “Á, ý của các ông là muốn nói bọn mọi rợ này đến địa bàn của chúng ta đòi tiền, nhưng binh mã của chúng ta không nhiều, không biết có thể đánh thắng bọn chúng hay không chứ gì?”

Tương Thanh gật gật đầu: “Có thể nói như vậy.”

“Đánh chết bà nó luôn!” Vương Trung Nghĩa bừng bừng khí thế nói lời thô kệch: “Lũ mọi rợ này thật rất đáng giận. Ta sống ở phía tây, lũ mọi rợ thường khi dễ người Hán chúng ta. Hoàng thượng, ông yên tâm, nếu ông muốn tự mình đi đánh lũ mọi rợ ấy thì sợ gì dân chúng không đồng lòng với ông! Người Trung Nguyên chúng ta không thiếu gì hảo hán, ngay cả lục lâm thảo khấu cũng sẽ nguyện ý đi đánh mọi rợ, người dân mỗi nhà sẽ ra sức góp bạc! Nói thử xem đến lúc đó còn đánh không lại lũ mọi rợ đó sao? Nếu có đánh nhau, ta sẽ không quay về phía tây, ta sẽ đi đánh chúng cùng các ông.”

Vương Trung Nghĩa vỗ ngực nói hết một hơi những lời tâm huyết, tất cả mọi người đều chăm chú dõi theo gã, Vương Trung Nghĩa bỗng thấy kỳ quái, sờ sờ đầu: “Ta nói gì sai sao? Ta không có học vấn, các ông đừng khinh!”

Diệp Vô Quy và Uông Càn Khôn thật lâu sau mới có phản ứng, thi lễ với Vương Trung Nghĩa: “Vương tiên sinh tài cao, đệ tử bội phục.”

Ngao Thịnh cười cong khóe miệng, hỏi Tương Thanh: “Như thế nào?”

Tương Thanh buông chén trà, thản nhiên nói: “Có dân chúng ủng hộ… Lý do này đủ thuyết phục cả triều văn võ.”

Ngao Thịnh vừa lòng, liền phong quan cho Diệp Vô Quy và Uông Càn Khôn. Cho Diệp Vô Quy đi theo Quý Tư, Uông Càn Khôn đi theo Mặc Tây Nhung, nói trắng ra là cho họ một cơ hội, nếu làm tốt, tả hữu thừa tướng tiếp theo chính là hai người họ.

Về phần Vương Trung Nghĩa, Ngao Thịnh sờ sờ cằm, hỏi: “Vương Trung Nghĩa, khanh muốn làm chức quan gì?”

Vương Trung Nghĩa ngữa mặt lên trời nghĩ nghĩ, thiệt tình gã chẳng có chút khái niệm gì về quan tước chức vị cả, bèn đơn giản trả lời: “Làm gì cũng được miễn là ta có cơm ăn còn được đi đánh mọi rợ nữa.”

“Thế nếu ngươi chết trong trận chiến thì sao?” Tương Thanh hỏi gã: “Có sợ không?”

“Có gì phải sợ!” Vương Trung Nghĩa giơ cao ngón cái: “Mẹ ta nói, đại trượng phu, phải chết trên chiến trường, vì nước cống hiến.”

Ngao Thịnh cười lắc đầu: “Như vậy đi, trước tiên, khanh tạm vào quân ngũ, đi theo Tống Hiểu học hỏi cách đánh giặc, phong khanh làm tham quân, sau rồi tính tiếp… Nếu khanh thật có tiền đồ, sau khi trở về, trẫm sẽ xây cho mẫu thân của khanh một ngôi từ đường, cho bà rạng tổ quy tông.”

“Thật hả!?” Vương Trung Nghĩa vừa nghe liền vui mừng quá đỗi, quỳ xuống dập đầu trước Ngao Thịnh: “Ta làm! Có thể xây cho mẹ ta một ngôi từ đường, dù có bảo ta làm trâu làm ngựa ta cũng làm!”

Ngao Thịnh gật gật đầu, nam nhân này tuy lỗ mãng nhưng lại trung hiếu vẹn toàn, xem ra không cần đọc nhiều sách vở mà chỉ cần có một người mẫu thân tốt là được rồi.

Ngao Thịnh ra lệnh cho nội đình chuẩn bị một bàn rượu thịnh soạn cho ba người. Vương Trung Nghĩa tới tận bây giờ mới được dịp hưởng thụ một bữa tiệc xa hoa như thế nên cứ hăng hái ăn no uống say. Uông Càn Khôn và Diệp Vô Quy buồn vì gặp nhau quá muộn nên nhân tiệc rượu mà ra sức chuyện trò, sau lại thấy rất hợp ý với Vương Trung Nghĩa nên cả ba đồng lòng kết bái huynh đệ. So sánh tuổi tác thì Diệp Vô Quy lớn nhất, năm nay hai mươi bốn tuổi, Vương Trung Nghĩa là lão Nhị, hai mươi hai, Uông Càn Khôn nhỏ nhất, hai mươi mốt. Lúc này lại càng thêm phần thú vị, kẻ cao nhất là tam đệ, người thấp bé nhất lại là lão đại.

Tạm không đề cập đến ba huynh đệ khác thường kia, lại nói đến Tương Thanh và Ngao Thịnh.

Suốt cả buổi sáng Ngao Thịnh bận rộn gặp gỡ các vị hiền tài. Hắn rất vừa lòng với kết quả đạt được, mắt thấy trời gần trưa, nên vội kéo Tương Thanh trở về phòng dùng ngọ thiện, Tương Thanh như trước vẫn một dáng vẽ thản nhiên, nhưng Ngao Thịnh rất hiểu y, biết lòng y đang rất cao hứng.

“Thanh, muốn uống chút rượu không?” Ngao Thịnh đột nhiên hỏi: “Ta có một vò hảo tửu rất quý nha.”

Tương Thanh ngẩng đầu nhìn hắn, hỏi: “Là rượu gì?”

“Trúc diệp thanh[1] thượng hạng.” Ngao Thịnh đẩy đĩa rau xanh sang cho Tương Thanh: “Mỗi lần uống trúc diệp thanh, ta đều nhớ đến ngươi.”

Tương Thanh thoáng ngạc nhiên, đọan lại gật gật đầu: “Uống.”

Ngao Thịnh khẽ gật đầu ra hiệu cho Văn Đạt, Văn Đạt nhanh tìm hai thị vệ, đào phần đất dưới gốc cây hòe trong ngự hoa viên lên, lấy ra một vò rượu bị bùn đất bám đầy. Văn Đạt khéo léo lau sạch, rồi mang vò rượu cùng hai chung rượu làm từ trúc xanh vào phòng, tinh tế rót rượu cho Ngao Thịnh và Tương Thanh.

Ngao Thịnh bưng chung rượu lên, đưa đến trước mặt Tương Thanh: “Nếm thử xem!”

Tương Thanh tiếp nhận chén rượu, trước ngửi thử, liền cảm thấy một mùi thơm thoang thoảng nhẹ len vào mũi, đúng là trúc diệp thanh thượng hạng, tinh khiết và thơm nồng. Bưng chung rượu lên kề vào môi, nhẹ nếm thử một ngụm, lãnh hương từng trận kéo vào, ngập tràn khoang miệng, sự ấm áp lan tỏa theo từng phân tấc dịch rượu chảy vào cổ họng, càng đi xuống, dịch rượu lại càng nóng, đến khi nuốt vào trong bụng, lại trở nên ấm áp ngọt lành như trước, đúng là tất cả những tư vị trong lòng đều đong đầy trong một ly rượu cạn.

Sau hai chén rượu, Tương Thanh nhẹ nhàng thở ra, cảm thấy rượu này uống thoải mái vô cùng. Mấy năm gần đây y đều bôn ba ngoài tây bắc xa, vốn đã quen với cái cay nồng của rượu sa mạc, rượu đi vào chỉ cảm giác được sự thống khoái! Một ngụm rượu làm bạn cùng mạt ánh trăng cô tịch, đại mạc thê lương, cỏ hoang cát vàng…đã khiến rất nhiều chuyện phai nhạt dần. Có thể nói, ba năm này, sự cô độc kia đã làm y giảm bớt áy náy trong lòng, nhưng lại khiến nỗi nhớ về con người lại thêm đầy.

Đang lúc bưng chung rượu xuất thần, chợt cảm giác thấy mu bàn tay đặt trên tay vịn chậm rãi truyền đến một trận ấm áp, Tương Thanh cúi đầu, tay Ngao Thịnh đang nhẹ miết lên tay y, nhẹ nhàng vuốt ve, mang đấy ái ý, có đau xót, có yêu thương và cả vị ủi an.