Lưu tướng công và hai mươi vạn tướng sĩ tử chiến sông Lũng, nhưng lúc sau Đồng Quan phá, quân địch ở quan ngoại tấn công khiến hai mươi vạn tướng sĩ đều hy sinh vì nước.
Giữa tháng hai, Lương Châu hủy diệt, Nam Man khí thế tăng vọt, cứ thế một đường xuôi nam.

Không đến ba ngày, gót sắt của Nam Man đã đạp lên cầu Hàm Dương.

Bình nguyên rộng mở cho phép bọn họ chuẩn bị đánh thẳng Trường An.
Tin tức không ngừng truyền tới triều đình, thần tử còn chưa kịp khóc thương Tể tướng qua đời thì đã bị tin tức này dọa cho xám mặt.

Đại Ngụy dựng nước mấy trăm năm, chưa bao giờ để quân Nhung tiến vào Trường An.

Trong lúc nhất thời, các thần tử đồng loạt tìm hoàng đế thương thảo đối sách.
Bọn họ hy vọng hoàng đế sẽ triệu tập mười vạn tinh binh đóng giữ Trường An, lại hiệu lệnh thiên hạ cần vương.

Mười vạn tinh binh thủ thành, lại có thêm Tiết Độ Sứ các nơi hộ giá thì hẳn là có thể chống cự được.
Đây là kế sách mà Trương tướng công đưa ra.
Nhưng hoàng đế nghe được thì lập tức trách cứ: “Hai mươi vạn tinh binh của Lũng Hữu cùng kẻ địch đánh lâu như vậy mà còn không ngăn được thì mười vạn tinh binh của Trường An làm sao mà ngăn được! Kế mất nước này của các ngươi là có ý gì?!”
Trương tướng công giật mình nhìn hoàng đế, chỉ một thoáng mặt ông đã xám ngoét.

Ông chắp tay muốn nói gì đó, muốn chất vấn hoàng đế chuyện Hà Tây bại nhanh như thế là vì đâu.

Chẳng lẽ Lưu tướng công không nói cho hoàng đế rằng lúc này không thích hợp xuất chiến sao? Chẳng lẽ không phải hoàng đế cả ngày thúc binh, nghi ngờ Lưu tướng công tham sống sợ chết không chịu xuất chiến sao? Chẳng lẽ không phải Lưu Văn Cát nói lời gièm pha khiến hoàng đế không tin quân đội Hà Tây sao?
Trương tướng công không tin Hà Tây sẽ bại nhanh như vậy!
Nói không chừng có mật thám, nói không chừng có người trong triều đình đã thông đồng với quân địch và truyền tin ra…
Nhưng đối mặt với tên hoàng đế đảo mặt nhanh như chớp kia, Trương tướng công đã không còn khí lực để nói gì nữa.

Ông có thể nói nhưng hoàng đế lại không muốn nghe.
Hoàng đế thấy bách quan lạnh lùng, không một người nói gì nữa thì đập bàn, phẫn nộ quát: “Quân địch đã sắp đánh vào Trường An rồi, các ngươi còn ở đây làm Bồ Tát cái gì?! Các ngươi đều tự xưng là thế gia trăm năm, đọc vạn quyển sách, dù xuất thân hàn môn cũng thanh cao… Sao lúc này lại không kẻ nào ra được chủ ý vậy?”
Trương tướng công thay Lưu tướng công đã chết cảm thấy lạnh lòng.
Ông ta thay mặt quần thần hỏi: “Việc đã đến nước này ngoại trừ thủ thành thì còn có thể thế nào? Bệ hạ có cách nào không?”
Hoàng đế trầm ngâm một chớp mắt sau đó nói: “Trẫm có chủ ý, thanh sơn còn đó thì không lo không có củi đốt.

Lúc nguy hiểm thế này tính mệnh của trẫm và các khanh quan trọng hơn một tòa thành.

Binh mã Nam Man nói không chừng sẽ tới Trường An trong ngày mai, trẫm và các vị ái khanh nhanh chóng thu thập hành trang mà lui khỏi nơi này thôi.

Đám man di kia chiếm được nơi này cũng chẳng thể thống trị, bọn họ cũng sẽ chẳng cần.

Đợi binh lính cần vương tới Trường An sẽ đuổi bọn chúng đi và chúng ta lại có thể trở về.”
Quần thần ồ lên.
Bọn họ sững sờ nhìn tên hoàng đế lòng tràn đầy tính toán hoang đường kia mà hoảng hốt.

Trong phút chốc cả điện yên tĩnh, nhưng không ai nói được nên lời.
“Hoang đường!” Vẫn là Trương tướng công tức đến đỏ mặt mà mắng một câu.
Một vị tướng công đã về hưu, một người đã chết trận, nay chỉ còn ba người.

Trong ba người ấy thì Trương tướng công và Lưu tướng công mới qua đời tuổi tác tương đương.

Lưu tướng công là người mạnh mẽ, còn Trương tướng công lại là Tể tướng ôn hòa nhất.
Mặt mũi ông ta hiền lành, luôn giúp mọi người giảng hòa và cực kỳ dễ nói chuyện.

Ngày xưa ông ta từng bị Lưu tướng công trêu là “Phật Di Lặc”, nói ông ta cả ngày chỉ mơ màng sống, mở một con mắt nhắm một con mắt mà trải qua thái bình.
Nhưng lúc này Trương tướng công tức đến run giọng nói: “Bệ hạ là muốn bỏ thành mà trốn sao? Vậy lúc quân địch tới thì trăm vạn dân chúng của Trường An phải làm sao đây? Bọn họ cũng đâu thể đào tẩu như chúng ta được? Những cổ trạch, lâm viên, sách vở… Cũng có thể cùng chúng ta đi ư?! Bệ hạ phải nói với người trong thiên hạ thế nào đây?!”
Hoàng đế giảo hoạt nói: “Ngươi biết từ xưa đến nay thành Trường An đã bị hủy bao nhiêu lần rồi không? Hủy thì xây lại, đây cũng không phải lần đầu tiên.”
Sau đó hắn nói: “Ý trẫm đã quyết!”
Trương tướng công: “Bệ hạ có thể trốn tới đâu? Phía dưới Ích Châu sao? Đất Thục hôm nay còn có thể đi vào chắc? Kiếm Nam đại chiến, tình huống cũng không tốt hơn chúng ta bao nhiêu.”
Hoàng đế đáp: “Đi Tịnh Châu, qua Hoàng Hà…”
Trương tướng công không nhịn được châm chọc: “Đến Hoàng Hà ngài cũng muốn vượt? Bệ hạ muốn lấy lịch sử ra nói thì thần cũng không thể không nhiều lời: từ xưa đến nay phàm là triều đình bỏ chạy tới phía nam, chưa có ai có cơ hội trở về trung nguyên.

Bệ hạ là muốn đem giang sơn này dâng tặng kẻ địch ư?”
Hoàng đế á khẩu không trả lời được nên thẹn quá thành giận.

Hắn không nói lại được Trương tướng công, lại tức đám thần tử không nể mặt mình nên quát: “Trương tướng công nhiễu loạn lòng người, dùng lời yêu ngôn mê hoặc người khác, mau giam lại! Lưu Văn Cát, ngươi và những người khác thương lượng xem chúng ta phải lui như thế nào…”
Lưu Văn Cát cầm phất trần trong tay, khom người thi lễ.
Kết quả đã định, những quan viên không thể tỏ ý kiến đều vô cùng bi thương.

Nhưng bọn họ chỉ có thể lau nước mắt, hốt hoảng quỳ xuống đất lạy dân chúng.
Quân như thế thì thần phải làm sao?
Vi Thụ lúc trước đấu với Lưu Văn Cát, lại đắc tội hoàng đế nên hai ngày này bị nhốt trong phủ phản tỉnh.

Lúc hắn nhận được tin tức thì lại là chuẩn bị để quần thần cùng dân chúng mau chóng chạy trốn.
Vi Thụ ngẩn ra hỏi: “Vì sao phải chạy trốn?”
Giọng hắn rất nhanh lại lạnh, giống như tuyết rơi.

Bộ dạng thanh cao tuấn mỹ, không hề có gai góc này của hắn từ trước tới giờ đều khiến người ta thích.
Thái giám tới truyền lời đã quên chuyện thái giám lần trước bị người này dọa sợ thế nên chỉ cười nói: “Nam Man sắp đánh tới, quân đội Lũng Hữu đều không thể ngăn cản được nên chúng ta đương nhiên càng không cần đánh tiếp.

Bệ hạ vì ngày sau nên đương nhiên cần nhẫn nhịn.”
Vi Thụ càng thêm kinh ngạc nói: “Thủ thành và công thành đâu giống nhau! Đánh không lại không có nghĩa là không giữ được thành.

Thủ thành cần người chứ không nhất định cần tướng sĩ.

Trường An ta có mấy trăm vạn người, lương thực tràn đầy, trong thành lại có nước, vậy có gì phải sợ? Chúng ta chỉ cần đóng kín bốn cổng thành, trong tình huống xấu nhất thì chỉ cần gắng sức thủ thành, đợi lính cần vương tới là được cứu rồi chứ sao?
Huống chi cho dù trong lúc nhất thời lính cần vương không đánh lui được Nam Man thì dựa theo dự trữ lương thực trong thành chúng ta vẫn có thể chống đỡ một năm.

Một khi đã như thế thì ta không hiểu vì sao phải chạy trốn?”
Thái giám nghe thấy thế thì mờ mịt.

Vi Thất Lang nói có lý như vậy, lại rõ ràng, lại gãy gọn, đến hắn cũng bị thuyết phục và không hiểu tại sao bọn họ lại phải trốn… Không lo ăn không lo mặc thì bọn họ trốn cái gì?
Nhưng bệ hạ muốn chạy trốn đó!
Thái giám vì vậy quanh co nói: “Thủ thành có lẽ rất khó…”
Vi Thụ đánh gãy lời kẻ kia: “Ta đã từng thủ thành, ta biết phải làm thế nào.

Ta biết thủ thành so với công thành luôn dễ dàng hơn.

Chỉ cần thủ thành không đầu hàng thì kẻ địch đảm bảo sẽ tổn thất nhiều hơn!”
Thái giám ngập ngừng một hồi mới nói: “Đây là ý của bệ hạ, lang quân chớ làm khó nô tài.”
Vi Thụ mỉm cười, từ trước đến giờ hắn luôn đạm mạc nhưng lúc này lại lãnh khốc.


Hắn bước lên trước, tay vịn thanh kiếm bên hông khiến thái giám kia sợ quá phải liên tiếp lùi lại.
Vi Thụ không còn ôn hòa như trước nữa mà chất vấn: “Thi cốt của Lưu tướng công còn chưa lạnh, bọn họ vì nước mà chết còn bệ hạ lại muốn trốn ư? Lũng Hữu bại nhanh như thế, nguyên nhân còn chưa biết vì sao mà bệ hạ lại muốn trốn sao?”
Thái giám lập tức quỳ xuống lắp bắp: “Nô tài… Nô tài không biết!”
Vi Thụ không hề để ý tới tên thái giám này, hắn cũng không cho kẻ kia trở về mà để hộ vệ trói tên kia lại còn mình thì vội vã đi ra ngoài.

Đầu tiên hắn đi tìm anh cả của mình là Vi gia Đại Lang.
Vi Giai ở trong nhà sửa sang lại sách vở và quần áo.

Mọi thứ đều lộn xộn, nhà bọn họ có phụ nữ và trẻ nhỏ, tôi tớ cũng cực kỳ kích động.

Đại nạn trước mắt, tất cả mọi người đều bị cảm xúc của kẻ bề trên ảnh hưởng nên bắt đầu hoảng sợ.
Vi Thụ được dẫn tới thư phòng gặp Vi Giai, nhưng tên kia chỉ quay lưng trào phúng nói: “Đúng là khách hiếm có! Từ khi Triệu Ngũ Nương rời kinh, Cự Nguyên đã cùng ta cắt áo, la hét muốn đoạn tuyệt với Vi gia.

Sao hôm nay ngươi lại rảnh tới cửa nhà ta thế?”
Vi Thụ lời ít mà ý nhiều: “Đại huynh, chúng ta giải hòa đi.”
Vi Giai sửng sốt, vội quay đầu nhìn hắn.

Từ trước đến nay Vi Thụ luôn tuấn lãng xuất trần nhưng nay hắn chỉ mặc một thân áo xám, bởi vì gấp gáp mà xiêm y lộn xộn, phong trần mệt mỏi.
Vi Thụ nhàn nhạt nói: “Ta muốn hòa giải với huynh và Vi thị.

Huynh trưởng nói cho ta biết phải thế nào huynh mới chịu thông cảm cho ta và Vi gia mới có thể không cùng ta đối đầu? Muốn ta quỳ xuống dập đầu hay phải trả giá cái gì?”
Vi Giai nhìn hắn một lúc lâu sau đó mới buông sách trong tay, nhạt giọng nói: “Cự Nguyên cùng Vi gia đối đầu 10 năm vẫn không khuất phục.

Ngươi cự hôn, đi sứ, vì một nữ tử mà cùng gia tộc cắt áo đoạn nghĩa… Vậy vì sao hiện tại ngươi lại đột nhiên muốn giảng hòa thế?”
Vi Thụ lời ít mà ý nhiều: “Quốc nạn ập đến, đấu tranh trong gia đình còn ý nghĩa gì nữa đâu.

Ta cùng Vi gia giải hòa là muốn thỉnh cầu Vi gia cho ta sử dụng tài nguyên của gia tộc và muốn huynh dùng quyền thế của mình cùng ta phối hợp.

Lòng riêng ta vẫn chán ghét Vi gia khống chế ta, nhưng… Vi gia chỉ là một phần nhỏ của Đại Ngụy mà thôi.

Đã có quá nhiều người chết, và đều chết không rõ ràng.

Ta nguyện ý cùng trong nhà giải hòa, chỉ cần… Có thể cứu thiên hạ này!”
Vi Giai trầm mặc nhìn hắn rồi nói: “Ta biết ngươi muốn làm cái gì.

Nhưng Lạc Dương Vi Thị trường tồn mấy trăm năm đều vì không dính tới những việc này.”
Không đợi Vi Thụ cãi lại hắn đã thất thần trong chốc lát sau đó mỉm cười nói: “Nhưng Vi thị ta trường tồn mấy trăm năm cũng bởi vì vào mỗi lúc trọng đại chúng ta đều chọn đúng.

Thời thế tạo anh hùng, mà anh hùng cũng phải hợp thời.

Vi thị ta mỗi một lần đối mặt với biến cố lớn đều có vận khí tốt, có đệ tử trong tộc đứng ra lãnh đạo bảo vệ gia tộc.

Ta không biết Cự Nguyên có phải người ấy không nhưng ta không phải.

Nếu đã không phải thì ta hẳn nên nhường đường cho kẻ khác… Thời đại này là của các ngươi.

Ta không chiếm nữa.”
Hắn đi về phía Vi Thụ, nghĩ tới đứa em trai ngày xưa mình không thích thì thấy buồn cười.

Hắn ghét đứa con thứ này vì sao lại tài hoa hơn người, tại sao từ nhỏ đã là thần đồng.

Là thần đồng cũng thế, nhưng tên này lại cậy tài khinh người, không để ý tới ai.

Những người cùng thế hệ trong nhà đều bị Vi Thụ đè trên đầu, ai cũng bị cái sự ngạo mạn của hắn chọc giận.
Nhưng nay bọn họ đã trưởng thành, lại trải qua rất nhiều chuyện nên Vi Giai đã sớm hiểu được có lẽ Vi Thụ không cậy tài khinh người, cũng không phải xem thường bọn họ mà là không giỏi giao tiếp, không biết lấy lòng người khác.
Vi Giai không nhịn được cười nói: “Cự Nguyên, đi làm chuyện ngươi muốn làm đi.

Cần gì Vi gia đều sẽ mở đường cho ngươi.

Nếu có sai thì mọi việc hôm nay ta sẽ gánh vác hết.”
Vi Thụ chắp tay nói với hắn: “Ta không cần huynh trưởng thay ta gánh vác, ta sẽ tự mình làm.”
Vi Giai mắng: “Thằng nhóc thối! Vẫn cứ không biết nói chuyện như thế!”
Thế lực của Vi gia trải khắp các bộ, có lẽ quan chức không cao nhưng chỗ nào cũng thấy đệ tử Vi thị, và đều là những người có quyền lên tiếng.

Đây đúng là lợi hại.
Đêm đó hoàng đế được Lưu Văn Cát đưa lên xe ngựa chạy trốn khỏi thành nhưng mới ra khỏi cửa thành đã phải dừng lại.

Lưu Văn Cát thông báo rằng Cấm Vệ quân không chịu bỏ trốn, bọn họ bị người ta thuyết phục nên muốn cùng dân chúng ở lại bảo vệ Trường An.
Hoàng đế mắng to nhưng Cấm Vệ quân không chịu đi, vậy thì hoàng đế còn đi thế nào được?
Hắn được Lưu Văn Cát đỡ xuống xe, đám phi tần núp trong xe ngựa phía sau sợ hãi không yên.

Trong số đám phi tần, Nhàn phi Xuân Hoa lặng lẽ vén rèm lên nhìn ra ngoài.

Nàng ta thấy trên đường đều là binh mã, ánh lửa trùng điệp, Lưu Văn Cát quay lưng lại phía bọn họ.

Trước mặt hoàng đế lúc này chính là Vi Thụ với bộ dạng không kiêu ngạo, không siểm nịnh.
Hoàng đế giận dữ hỏi Vi Thụ: “Vi ái khanh, ngươi cũng vươn tay quá dài, can dự vào quá nhiều chuyện rồi đó.

Ngươi dám thuyết phục Cấm Vệ quân không đi… Khương thống lĩnh, các ngươi chẳng lẽ nghe lời Lễ Bộ Lang Trung mà không thèm để ý tới lời trẫm ư?”
Vi Thụ chắp tay nói: “Bệ hạ, ngày xưa thần đi sứ để lập quan hệ ngoại giao với các nước lân bang.

Lũng Hữu bị vây hãm, các nước kia cũng theo đó mà khủng hoảng.

Thần đã viết sổ con kêu gọi bọn họ viện trợ Hà Tây.

Nam Man hành quân quá nhanh, đương nhiên sẽ không để ý tới phía sau.

Các nước tứ phương có thể lợi dụng cơ hội bức tới, Trường An lại tiến công từ phía trước, cứ vậy kẹp Nam Man ở giữa khiến bọn chúng tiến thoái lưỡng nan.

Nam Man ắt hẳn sẽ phải hoảng sợ.”
Hoàng đế trào phúng: “Ta lại không biết một Lễ Bộ Lang Trung còn có thể đánh nhau cơ đấy! Binh Bộ Thượng Thư đâu, Binh Bộ…”
Vi Thụ mặt không đổi sắc nói: “Binh Bộ Thượng Thư uống quá nhiều rượu nên đang nghỉ ngơi trong phủ.”
Lưu Văn Cát giật giật mí mắt, tàn nhẫn nhìn về phía Vi Thụ.
Vi Thụ… trói Triệu Công ư? Trói cha của Triệu Ngũ Nương ư? Sao hắn dám?
Hoàng đế cũng phát hiện ra nên cực kỳ kinh ngạc nhìn Vi Thụ.

Hắn lui về sau một bước, sợ Vi Thụ cũng giam lỏng mình.
Hoàng đế lo sợ không yên, lại cảnh giác gọi: “Khương thống lĩnh…”

Vị tướng quân cao to đứng cúi đầu bên cạnh nãy giờ lập tức nói: “Bệ hạ, Vi Thất Lang nói có lý.

Lúc nước nhà lâm nguy chúng ta không thể đi, không thể để mất Trường An được.

Trăm vạn dân chúng nơi này đang nhìn… Chúng ta không thể vứt bỏ bọn họ mà đi.”
Hoàng đế mắng: “Vi Cự Nguyên đã từng làm sử quan, từng làm sứ thần nên miệng lưỡi của hắn rất giỏi lắt léo, các ngươi đều bị hắn lừa rồi!”
Vi Thụ mỉa mai: “Đây là lần đầu tiên thần được khen là ‘miệng lưỡi lắt léo’.”
Hoàng đế: “Vi Cự Nguyên, đến tột cùng người có ý gì?!”
Vi Thụ: “Thần không có ý gì, chỉ muốn mời bệ hạ về Trường An, an ổn ngồi trong hoàng cung.

Một ngày Trường An còn chưa đổ thì bệ hạ không thể rời khỏi đây.

Một ngày mà cái chết của Lưu tướng công còn chưa được làm rõ thì bệ hạ cũng không thể lùi về sau.

Cả triều văn võ đều theo và nhìn bệ hạ đó.

Mười vạn tinh binh của Trường An cũng đều đang nhìn và bảo hộ bệ hạ.”
Hoàng đế trợn mắt há hốc mồm nhìn binh mã xung quanh, lại nhìn đám quần thần cúi đầu không nói.

Hắn thấy ánh lửa trùng điệp, lại quay đầu nhìn thành Trường An ở phía sau.

Hắn đổ mồ hôi lạnh, không chút nghi ngờ nếu hôm nay mình nhất định đi thì nói không chừng Vi Thụ dám giết vua chứ chẳng chơi… Cả triều văn võ cũng sẽ không ngăn cản!
Tất cả đều muốn giết hắn!
Đều muốn giết hắn!
Hoàng đế sợ hãi vô cùng, chưa bao giờ hắn ý thức được cừu hận của quần thần với mình như lúc này.

Lưu Văn Cát ở phía sau đẩy hắn một cái mới khiến hắn định thần lại.
Hoàng đế nghĩ cũng may còn có Lưu Văn Cát.

Cấm Vệ quân xem ra đều nghe lời đám nhân sĩ lúc này do Vi Thụ đứng đầu, xem ra thế gia và hàn môn đã liên thủ.

May mà trong tay Lưu Văn Cát vẫn có binh, bắc nha vẫn nghe lời bọn họ!
Hoàng đế cất giọng khàn khàn quái dị: “Vậy trẫm… sẽ về hoàng cung.”
Vi Thụ im lặng.
Lưu Văn Cát ngước mắt đối diện với Vi Thụ lúc này cũng đang nhìn bọn họ.

Chỉ thoáng lướt qua nhưng lòng Lưu Văn Cát lại dâng lên sợ hãi.

Ánh mắt Vi Cự Nguyên quá bình tĩnh khiến hắn ý thức được sát khí trong đó.

Một kẻ từng lấy thân phận sứ thần mang binh công thành thì tuyệt đối không phải một văn thần bình thường.
Vi Thụ sẽ giết người, hơn nữa hắn khác với người có tính cách ôn hòa như Ngôn Thượng.

Một khi giết người Vi Thụ sẽ cực kỳ bình tĩnh, có lẽ còn không hề áy náy… Càng là người lạnh lẽo thì càng không có sơ hở.
Lòng Lưu Văn Cát khó chịu, nhận rõ nguy hiểm của bản thân.

Không, hắn phải tự cứu mình.

Tên hoàng đế này coi như bị Vi Thụ phế rồi… Mà nay vì cái chết của Lưu tướng công nên thế gia và hàn môn đã liên thủ, cùng nhau tấn công thái giám khiến bọn họ không thể chống đỡ.
Hắn phải nghĩ cách tự cứu thôi.
—–
Từ tháng 2 Trường An bắt đầu thủ thành.
Giống như Vi Thụ đã đoán trước, thành Trường An có đủ lương thực đủ duy trì một năm, cửa thành lại rắn chắc do đây là cửa ải trọng yếu bảo vệ đô thành.

Cuộc chiến thủ thành cũng không khó, chẳng qua chỉ là tượng trưng.
Tuy nhiên Trường An rơi vào khốn cảnh thì Tiết Độ Sứ bốn phương đều tới cứu.

Trong lúc nhất thời, binh mã thiên hạ đều chi viện cho Trường An.

Lưu tướng công chết khiến tướng sĩ Đại Ngụy phẫn nộ.

Hoàng đế và Trường An bị vây khốn khiến mỗi người dân Đại Ngụy đều cảm thấy nhục nhã.
Những nơi khác có thể vong nhưng Trường An thì không thể.
Còn chuyện Vi Thụ giam lỏng hoàng đế thì đám người này không hề biết.

Tướng sĩ và triều thần của Trường An cùng thái giám minh tranh ám đấu đến nảy lửa.

Đương nhiên cái này những người ngoài cũng không biết.
Trường An bị nhốt, binh mã đều cứu viện thế nên binh lực và lương thảo viện trợ cho Kiếm Nam cũng vì thế trở nên khan hiếm.
Bản thân Trường An khó mà giữ nên đương nhiên cũng không thể lại cung cấp lương thảo cho Kiếm Nam.

Đế đô rơi vào nguy cơ, cửa thành phong bế cũng không thể gửi hiệu lệnh phái người khác tới tác chiến với Kiếm Nam.
Lúc này cuộc chiến ở Kiếm Nam lại đi tới cao trào quan trọng nhất, lương thảo và binh lực hai bên đều thiếu thốn.

Ngôn Thượng đem hết thủ đoạn mượn lương và mượn binh xung quanh nhưng mọi người đều nói bọn họ phải chi viện cho Trường An.

So với đế đô thì được mất của Kiếm Nam không đáng để lo.
Ngôn Thượng vì thế mà lo âu chạy quanh nhưng lương thảo vẫn ngày một thiếu, binh mã cũng không gia tăng.
Triệu Linh Phi cắn răng, tự vỗ ngực nói sẽ lấy thân phận của mình đi mượn binh.

Địa phương bên cạnh có con đê cạnh Trường Giang, năm ngoái triều đình có điều lương thảo tới tiếp tế, còn có 5 vạn quân tới hỗ trợ.

Tiết Độ Sứ nơi đó còn là học sinh của cha nàng ta nên Triệu Linh Phi tự tin nói: “Ngôn Nhị ca, biểu ca, hai người yên tâm.

Muội nhất định sẽ mượn được binh và lương thảo! Muội nhất định sẽ giúp hai người giải trừ nguy cơ!”
Dương Tự cả người nhuộm máu đen, mặt mũi mệt mỏi.

Lúc Triệu Linh Phi lấy quân lệnh mà cam đoan thì hắn vừa mới kết thúc một hồi đại chiến.

Hắn ngồi dưới đất, tay chống trán nghĩ tới những thi thể trên chiến trường.
Khuôn mặt hắn băng lạnh, ánh mắt hung ác nham hiểm lại tàn nhẫn.


Đây là di chứng của việc đánh nhau quá nhiều trên chiến trường… Ngày đêm lên chiến trường sẽ khiến con người ta xảy ra biến đổi cực lớn.
Dương Tự nghĩ phải làm sao mới giết được Mông Tại Thạch.

Giết tên kia rồi thì Kiếm Nam coi như thắng hơn nửa.

Ngôn Nhị lang sẽ không cần lo âu như thế, Linh Phi sẽ không cần cùng cha mình đối đầu, còn hắn sẽ có thể…
Ngôn Thượng đứng sau lưng Dương Tự, bởi vì đối phương phản ứng quá lớn nên chàng cũng không tới gần mà chỉ dịu dàng nói: “Tam Lang, đã hai ngày huynh không chợp mắt, ta muốn ra ngoài làm việc, huynh ngủ một lát đi.”
Dương Tự lắc đầu nói: “Ta không thể ngủ.”
Ngôn Thượng lo lắng nhưng chỉ có thể thở dài, không nói gì nữa.

Chàng và Triệu Linh Phi tự rời khỏi quân doanh.

Trước khi đi chàng dặn dò em gái lúc này đang phụ trách cứu chữa người bị thương trong quân doanh phải để ý tới Dương Tự nhiều một chút.
Ngôn Hiểu Chu đồng ý với chàng sau đó lại ưu sầu: “Nhị ca, chúng ta cũng không còn thuốc nữa.

Người bị thương ngày càng nhiều, chúng ta căn bản không cứu được nhiều như thế…”
Ngôn Thượng xoa trán nói: “Ta sẽ nghĩ cách.”
Sau lưng đột nhiên truyền đến tiếng người hỏi: “Dược cũng không đủ sao?”
Anh em hai người quay đầu thấy Dương Tự đứng ở cửa lều.

Hắn trầm tư một chớp mắt rồi nói: “Vậy càng phải tốc chiến tốc thắng.”
Ngôn Thượng nói: “Tam Lang, huynh không cần bởi vậy…”
Dương Tự: “Ta biết đánh trận thế nào, không cần huynh dạy.”
Ngôn Thượng biết hắn vì chiến tranh mà cảm xúc thay đổi nhiều, lời nói cũng trở nên lạnh lẽo vô tình.

Chàng lại cùng Ngôn Hiểu Chu trao đổi ánh mắt, chỉ có thể gửi hy vọng em gái có thể làm cho Dương Tự thả lỏng một chút.

Sau khi dặn dò xong chàng lập tức rời khỏi quân doanh.
Chàng còn việc phải làm.

Trong lòng chàng đè nặng một áp lực thật lớn mà không ai biết.
Nhưng có ai ngờ đây là lần cuối cùng Ngôn Thượng và Dương Tự còn thấy mặt.
—–
Đầu tháng 4, Ngôn Thượng dẫn hộ vệ đến Nghiễm Châu gặp sứ thần của A Lặc Vương sau khi đã xác định đây không phải bẫy.
Đối phương mang đến một khối ngọc bội cùng một cái tráp.
Nhìn thấy ngọc bội này là mặt Ngôn Thượng lập tức căng lên, bàn tay giấu trong tay áo nhẹ run.
Dù vậy chàng vẫn bình tĩnh không gợn sóng hỏi: “Đây là ý gì?”
Đối phương điên cuồng nói: “Nghiễm Châu đã phong thành, tới giờ đã qua hai tháng.

Có phải trong 2 tháng đó các ngươi không nhận được thư từ bên kia truyền tới không? Nói cho các ngươi biết, A Lặc Vương của chúng ta oai hùng cường đại đã bắt được phu nhân của ngươi, cô công chúa gì gì kia.

Đây chính là đồ trên người nàng ta, hẳn là ngươi cũng nhận ra phải không?”
Ngôn Thượng lại run lên nhưng vẫn mặt lạnh nhạt nói: “Ta không biết ngươi đang nói gì.”
Sứ thần nói: “Vậy ngươi có thể mở tráp ra nhìn một chút… Đó là đầu ngón tay của phu nhân ngươi! Nếu ngươi không lui binh ở Kiếm Nam thì lần tiếp theo sẽ không phải ngón tay nữa đâu!”
Ngôn Thượng liếc qua một chút, trong lúc nhất thời cả người chàng như rơi xuống hầm băng, đầu óc mơ màng nặng nề rồi trống rỗng.

Chàng phải cực kỳ cố gắng mới không khiến bản thân lộ ra trò hề, không để đối phương thấy bản thân thất thần.

Chàng liều mạng ép bản thân phải bình tĩnh nhưng đầu óc vẫn trống rỗng.
Chàng đã sớm chuẩn bị sẽ vì nước mà hy sinh, cũng có dũng khí đó… Nhưng khi ngày này tới thì đầu óc chàng vẫn không dùng được.
Ngôn Thượng bình tĩnh đi tới mở cái tráp kia, sứ thần Nam Man bị hộ vệ canh chừng bên cạnh lúc này cực kỳ khẩn tưởng nhìn chằm chằm chàng, sợ đối phương nhìn ra chỗ khác thường.
A Lặc Vương đã muốn làm giả thì đương nhiên phải chuẩn bị chu đáo.

Hắn chọn một phần ngón tay của nữ bị hỏa thiêu, đó lại là người gầy yếu, vóc người quả thực không khác cô công chúa kia mấy… Một khúc ngón tay bị đốt cháy nên không sợ Ngôn Nhị lang nhận ra.
Ngôn Thượng nhìn ngón tay bị đốt cháy như than củi trong hộp lộ cả xương trắng.

Hộ vệ phía sau chàng thậm chí nghiêng mặt không dám nhìn nhiều.
Chàng yên lặng nhìn, ánh mắt lại quét qua miếng ngọc bội kia sau đó lại chuyển tới ngón tay trước mặt.

Trong nháy mắt trong đầu chàng như có ngàn vạn suy nghĩ dâng lên, lại cũng như trống rỗng.

Chàng nghĩ tới bóng dáng xinh đẹp của Mộ Vãn Diêu, nghĩ tới nàng cười hì hì quay đầu lại nhìn mình, lại nghĩ tới bóng nàng đứng trong chiến hỏa, bị lửa thiêu đốt, tay áo tung bay…
Ngôn Thượng nói: “Các ngươi dám lấy thứ này ra lừa ta là tưởng ta sẽ trúng kế ư? Đây không phải ngón tay của phu nhân ta mà chỉ là mưu kế của các ngươi thôi.

Hai nước đánh nhau sẽ không giết sứ thần, ta sẽ không giết các ngươi nhưng để trị tội lừa gạt ta sẽ không để các ngươi bình yên rời đi.”
Chàng bình thản nhìn đỉnh lều nói: “Trói bọn chúng lại, nghiêm hình thẩm vấn.”
Ngôn Thượng ra khỏi trướng, hộ vệ đi theo kính nể nói: “Không hổ là Nhị Lang.

Vừa rồi thuộc hạ không hề nhận ra đó không phải đầu ngón tay của điện hạ, chỉ có Nhị Lang nhận ra … Những kẻ đó dám lừa ngài thì nhất định phải thẩm vấn thật kỹ, hỏi xem tình hình Nghiễm Châu là như thế nào …”
Hắn còn chưa dứt lời thì thân thể Ngôn Thượng ở phía trước đã thoáng lung lay một cái.
Hộ vệ kinh ngạc, vội đi tới đỡ lại chỉ thấy tay chàng cực kỳ lạnh lẽo.

Chàng nghiêng mặt, sắc mặt trắng bệch.
Hộ vệ nhận ra không ổn, vội hỏi: “Chẳng lẽ… ngón tay kia không phải giả? Thật là điện hạ…”
Ngôn Thượng lại giống như thuyết phục chính mình mà nói: “… Nhất định là giả.”
Hộ vệ ngẩn ra nhìn sắc mặt Ngôn Thượng sau đó bắt đầu mờ mịt.

Một lát sau hắn nhẹ giọng hỏi: “Nhị Lang không hỏi thật giả sao? Điện hạ đối với Nhị Lang như thế mà ngài lại báo đáp điện hạ như vậy ư?”
Ngôn Thượng cúi đầu nói: “Thẩm vấn sứ thần kia, ta phải biết tình hình Nghiễm Châu như thế nào.”
Hộ vệ cao giọng nói: “Tức là chúng ta vẫn đánh ư? Nhưng chúng ta không có binh! Kiếm Nam đã đến thời điểm mấu chốt, chúng ta không thể lui binh! Nhị Lang…”
Hắn sợ Ngôn Thượng muốn hồng nhan mà bỏ qua quốc gia nên lại khuyên.

Bản thân Ngôn Thượng thì giật mình đứng trước lều trại, đầu óc loạn lên.

Chàng cũng không dám nghĩ gì, trái tim đã đau tới cuộn lại.
Chàng thấp giọng nói: “Ta biết.”
—–
Triệu Linh Phi đến gõ cửa châu phủ, cầu xin đối phương xuất binh.

Ngôn Thượng thì ở ngoại thành thẩm vấn sứ thần, ép hỏi tình huống Nghiễm Châu.
Còn Dương Tự kẹt trong cuộc chiến ở Kiếm Nam thì giống như điên rồi.

Hắn đã mấy ngày không nghỉ, vốn nên lui ra nhường những người khác lên chiến trường nhưng bản thân hắn lại không chịu lui xuống.

Hắn đã thua vài trận.
Đại Ngụy thất bại liên tục là do thiếu binh, tình cảnh càng thêm họa vô đơn chí.
Trong doanh trướng của Kiếm Nam vang lên tiếng Dương Tự quát mắng không ngừng.

Nhưng bất hạnh là nguyên soái Ngôn Thượng không ở đó nên các tướng quân có muốn cáo trạng cũng không được.

Mà quyền lực Ngôn Thượng cho Dương Tự lại quá lớn khiến hắn có thể mặc những người khác phản đối mà dốc hết binh lực xuất chiến.
Ai nói hắn cũng không nghe.
Không khí trong doanh cực kỳ u ám.
Mông Tại Thạch nhạy bén chú ý tới tình huống của Đại Ngụy, vài lần đánh nhau khiến hắn ý thức được Đại Ngụy bên kia đã xảy ra vấn đề.

Nếu không Dương Tự sẽ không đột nhiên mạnh mẽ như thế, cũng không đột nhiên thua nhiều như vậy nhưng vẫn chống một hơi giống như phải thắng.
Mông Tại Thạch ý thức được đây là cơ hội của mình.

Nhưng kinh nghiệm chinh chiến nhiều năm vẫn khiến hắn cảnh giác.

Sau khi chết rất nhiều trinh sát cuối cùng hắn cũng xác định được Kiếm Nam bên kia vừa thiếu lương lại thiếu binh.

Dương Tự lúc này nhất định phải đánh thắng, hắn cần một trận thắng.


Nhưng càng gấp gáp thì hắn sẽ càng để lộ nhiều sơ hở.
Mông Tại Thạch bắt đầu toàn lực phản công!
Hắn không hề che dấu thực lực, thề muốn thừa dịp Dương Tự không bình tĩnh mà chôn vùi đối phương cùng binh lính Đại Ngụy.

Sau khi chiến tranh ở Kiếm Nam kết thúc hắn sẽ hòa đàm với Ngôn Thượng và Đại Ngụy.

Sau khi giải quyết A Lặc Vương… Nam Man mới chính thức có thể phát triển theo ý tưởng của hắn!
Cuối tháng tư, Mông Tại Thạch cùng Dương Tự quyết chiến ở Đại Hạp Cốc.
Mười vạn binh của Dương Tự chỉ còn năm vạn.

Quân Đại Ngụy lùi tới hẻm núi, Mông Tại Thạch dẫn mười vạn đại quân tiến vào hẻm núi truy kích.

Nhưng sau khi tiến vào hắn lại phát hiện quân đội của đối phương biến mất.
Hắn ý thức được không ổn, phát hiện địa thế bất lợi với bên mình nên lập tức nghĩ tới Diễn Binh ở Trường An năm ấy.

Khi đó mình Dương Tự dẫn trăm người ngăn hắn trong hẻm núi, để hắn không thể tiến lên được.
Mông Tại Thạch ngẩng đầu nhìn tứ phương, cỏ cây xanh um che tầm mắt, hắn vội ghìm ngựa cao giọng rống: “Lui binh! Lui…”
Lúc này từ bốn phương tám hướng quân đội Đại ngụy lạnh lẽo nhìn kẻ địch phía dưới.

Dương Tự cũng cao giọng hô: “Giết —— ”
Mông Tại Thạch ngửa đầu đối diện với đôi mắt lạnh băng của Dương Tự.
Dương Tự liếm mùi máu trong miệng, nắm chặt thương.

Hắn đứng trước núi đá, nhìn địch ta đối đầu, máu trong người cứ thế sôi lên, lòng tràn đầy kích động run rẩy.
Hắn lớn tiếng hô: “Kiếm Nam thắng hay không đều dựa vào một trận này, tất cả đều tấn công cho ta —— ”
Quân sư ở phía sau lo lắng nói: “Cho dù chúng ta lừa được kẻ địch vào hẻm núi này nhưng tướng lĩnh của bọn chúng lợi hại, binh lực lại cường đại, nhiều gấp đôi chúng ta.

Vậy chúng ta vẫn…”
Dương Tự: “Vậy thì tử chiến.”
—–
Nếu đã chiến thì chính là tử chiến.
Nếu đã được ăn cả ngã về không thì tuyệt không thể quay đầu lại.
Không có gì khác ngoài máu.
Tay nắm thương thì thề không gục ngã.
“Giết —— ”
Tiếng giết chóc quanh quẩn khắp núi đồi.
Quân hai bên đại chiến liên tiếp 3 ngày trong Đại Hạp Cốc.

Mông Tại Thạch và Dương Tự đều lợi hại, binh mã trong tay hai người đều đánh hết sức.

Dương Tự dốc hết sức tiến công, Mông Tại Thạch lại liều mạng công phá.

Nhưng binh mã Đại Ngụy xác thật thiếu, Mông Tại Thạch lại không phải tay mơ.
Một trận chiến này, Đại Ngụy hao tổn bảy vạn binh mã của địch khiến Mông Tại Thạch chỉ còn lại ba vạn binh.
Nhưng cái giá phải trả là năm vạn binh của Đại Ngụy cứ vậy chôn thân nơi này.
Đánh tới cuối cùng, mọi người chết hết, Dương Tự cũng trúng vài mũi tên.

Bên cạnh hắn đã chẳng còn ai, hắn cứ vậy cầm thương mà chiến đấu, khuôn mặt bị máu nhuộm đỏ, trước mắt đều là thi thể.

Thân thể hắn bởi vì bị thương quá nặng nên không động đậy được, chỉ có thể quỳ xuống bên cạnh đống thi thể.
Hẻm núi tháng 4 chỉ có gió lạnh phần phật.
Mông Tại Thạch cũng mệt mỏi cùng cực, hắn mở mắt trừng trừng nhìn quân Đại Ngụy chết hết, lại thấy Dương Tự quỳ ở kia, căn bản không thể đứng dậy.
Mông Tại Thạch trầm mặc.
Phía sau có kẻ đề nghị: “Tướng quân, tên Dương tướng quân kia quá lợi hại, chúng ta cần bắn thêm mấy mũi tên nữa để hắn chết hẳn đi thôi.”
Mông Tại Thạch cự tuyệt.

Tuy là kẻ địch nhưng hắn vẫn muốn cho Dương Tự chút tôn nghiêm cuối cùng.

Hắn đạp lên thi cốt, từng bước lảo đảo, nghiêng ngả đi về phía Dương Tự lúc này đang cầm thương quỳ trên mặt đất.

Khuôn mặt hắn giấu dưới khôi giáp đã hoàn toàn thay đổi, đến Mông Tại Thạch cũng không nhận ra được.

Nhưng ánh mắt Dương Tự vẫn yên lặng còn lòng Mông Tại Thạch lại nghĩ tới Diễn Binh ở Trường An năm đó.
Hắn đứng bên người Dương Tự lúc này cắm đầy tên mà thấp giọng nói: “Ngươi cùng ta đánh nhau từ Diễn Binh tới nay, cuối cùng ta thắng —— ”
Có binh lính phía sau rống lên: “Đại vương!”
Mông Tại Thạch cúi đầu, thấy mũi thương của Dương Tự đâm thẳng qua trái tim mình.

Hắn mờ mịt lại khó hiểu, trên người không còn sức lực, cứ vậy ngã quỳ xuống.
Dương Tự nở nụ cười, kẽ răng đều là máu phun ra một câu: “Ta không thua.”
Binh lính Nam Man tận mắt thấy Đại Vương của mình chết thì phẫn nộ đánh tới, vung kiếm chém lên người Dương Tự, muốn băm thây hắn thành vạn đoạn.

Nhưng lúc này Dương Tự đã chẳng quan tâm gì nữa, hắn ngã xuống, nhìn Mông Tại Thạch cũng ngã xuống không đứng lên được nữa.
Dương Tự ngẩng đầu ngắm nhìn bầu trời, trong lòng nghĩ: Ngươi không thắng, ta cũng không thua.
Cuối cùng ta cũng kéo được ngươi cùng chết.
Hắn mê man, nghĩ tới rất nhiều tâm nguyện và vướng bận hắn còn chưa hoàn thành… Nhưng chúng là gì, hắn không nhớ ra nổi.
Cứ như vậy đi.
—–
Mưa to đầm đìa, trời đất cô liêu.
Một trận mưa lớn phủ lên tất cả.
Triệu Linh Phi quỳ trước cửa phủ Tiết Độ Sứ mà gõ cửa cầu xin: “Van cầu ngài! Van cầu ngài cho ta mượn binh đi! Biểu ca của ta cần binh, Kiếm Nam cần binh…”
Trời đất lại vẫn mưa không ngừng.
Ngôn Thượng cứng ngắc ngồi trong lều, lo âu chờ sứ người mang kết quả thẩm vấn tới.

Chàng không chịu để Kiếm Nam lui binh, không chịu viện trợ Nghiễm Châu.

Lúc này lòng chàng đều là lửa đốt, nhưng lại chỉ nhìn chằm chằm miếng ngọc bội kia, nhất quyết không chịu lui binh.

Đột nhiên có người tới báo:
“Nguyên soái, chúng ta thắng ——
“Nhưng Dương Tam Lang cùng năm vạn tướng sĩ đều đã hy sinh.”
Ngôn Thượng bỗng dưng đứng lên chạy vội ra ngoài.

Chàng vén rèm lên nghe sứ giả lặp lại lần nữa.

Sau đó chàng cúi đầu, phun ra một ngụm máu.
Một bên là Mộ Vãn Diêu, một bên là Dương Tự…
Chàng sụp đổ khiến mọi người cực kỳ hoảng sợ.
—–
Trong quân doanh Kiếm Nam, Ngôn Hiểu Chu mệt mỏi nằm trên một cái bàn canh chừng người bị thương.
Nàng mơ màng nằm mộng.

Trong giấc mộng nàng đuổi theo ai đó, nhưng phía trước chỉ có sương mù, không thể thấy rõ.
Sau đó nàng mơ hồ nhớ tới lúc nàng nói với anh hai rằng mình muốn đi tìm Dương Tam Lang.

Khi đó lòng nàng tràn đầy chờ mong, nói cuộc đời hắn không nên như thế, hắn còn cả cuộc đời phía sau, hắn nên sống cuộc đời phóng túng tự do ——
Vốn lính ngự lâm giữ đế thành
Theo quân phiêu kỵ đánh Ngư Dương
Há đâu chẳng biết biên đình khổ
Dẫu chết còn lưu lại tiếng thơm.
Bỗng nhiên, nàng nghe thấy tiếng hoan hô trong quân doanh vang lên thế là bừng tỉnh.
Ngôn Hiểu Chu cho rằng Dương Tự cuối cùng cũng đánh thắng trở về nên vui vẻ kéo mành, muốn nhìn xem hắn có bị thương hay không, có vết thương nào nặng hay không ——
“Tam Lang!”